CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Hỏi: |
Kính gửi Bộ Tài Chính Câu hỏi của tôi liên quan đến việc xác định thu nhập miễn thuế từ tiền công, tiền lương làm thêm giờ cho giờ làm them thứ 201 trở đi. Hiện tại, công ty tôi đang làm việc xác định thu nhập từ phần tiền lương, tiền công làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ của giờ làm thêm thứ 201 trở đi không được miễn thuế thu nhập cá nhân. Công ty trình bày áp dụng như vậy theo hướng dẫn của công văn số 4103/CT-TTHT ngày 10/6/2019 của Cục Thuế Đồng Nai. Theo công văn này căn cứ để xác định thu nhập miễn thuế dựa trên điều Điều 4 của Luật thuế thu nhập cá nhân, điều 4 của nghị định số 65/2013/NĐ-CP và điều 106 của Bộ luật lao động. Điều 4 của Luật thuế thu nhập cá nhân, điều 4 của nghị định số 65/2013/NĐ-CP các khoản được miễn thuế bao gồm: “….i) Thu nhập từ phần tiền lương, tiền công làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương, tiền công làm việc ban ngày, làm việc trong giờ theo quy định của Bộ luật Lao động” Điều 106 của Bộ luật Lao động qui định như sau: “1. Làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường được quy định trong pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc theo nội quy lao động. 2. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: a) Được sự đồng ý của người lao động; b) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 30 giờ trong 01 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định thì được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong 01 năm; c) Sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã không được nghỉ.” Công văn lập luận rằng luật lao động quy định số giờ làm thêm không quá 200 giờ một năm nên phần thu nhập được trả cao hơn theo quy định tại điểm I điều 4 tại nghị định 65/2013/NĐ-CP của giờ làm thêm thứ 201 trở đi không được miễn thuế. Sau khi tìm hiểu kỹ mục i điều 4 của nghị định số 65/2013/NĐ-CP, tôi thấy lập luận trên là chưa thỏa đáng. Mục I, điều 4 này chỉ quy định về phần được trả cao hơn theo quy định trong Điều 97 của Bộ luật lao động. Mục này không quy định về số giờ lao động nên viện dẫn mức khống chế 200 giờ một năm của Điều 106 là không hợp lý. Hơn nữa, Điều 106 chỉ quy định mức khống chế này với người sử dụng lao động mà không quy định người lao động không được làm thêm quá 200 giờ một năm. Giả sử một người lao động làm việc cho hai công ty khác nhau, trong một năm người lao động có làm thêm giờ mỗi công ty ít hơn 200 giờ nhưng tổng cộng lại nhiều hơn 200 giờ một năm. Vậy mức khống chế này có được áp dụng không? Vì vậy, tôi xin Bộ Tài Chính hướng dẫn cụ thể cách xác định thu nhập miễn thuế từ tiền công, tiền lương làm thêm giờ của giờ làm thêm thứ 201 trở lên để tránh gây thiệt thòi không đáng có cho người lao động. Tôi xin chân thành cảm ơn!
07/11/2019
Trả lời: