CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Blockchain hóa thanh toán quốc tế: giấc mơ số và thực tế rủi ro

Invest Global 08:26 15/10/2025

(KTSG Online) – Chi phí cao và tốc độ chậm của hệ thống thanh toán quốc tế khiến không ít đơn vị kỳ vọng công nghệ blockchain sẽ là giải pháp bổ sung cho

(KTSG Online) – Chi phí cao và tốc độ chậm của hệ thống thanh toán quốc tế khiến không ít đơn vị kỳ vọng công nghệ blockchain sẽ là giải pháp bổ sung cho hệ thống, với tốc độ nhanh và chi phí thấp hơn. Nhưng rủi ro về rửa tiền, rò rỉ dữ liệu và an ninh mạng đòi hỏi các cơ quan quản lý phải thận trọng, cân nhắc áp dụng từng bước.

Ươm mầm tài sản mã hóa tại Trung tâm tài chính quốc tếQuản lý thuế ra sao với tài sản mã hoá tại Việt Nam?

Kỳ vọng “nhanh, rẻ” hơn nhờ công nghệ blockchain

Thanh toán xuyên biên giới là cấu phần quan trọng trong hoạt động thương mại và đầu tư toàn cầu, với các hệ thống như: SWIFT, thẻ tín dụng quốc tế, ví điện tử xuyên biên giới, dịch vụ fintech giúp hoạt động giao dịch giữa các cá nhân, doanh nghiệp diễn ra nhanh chóng, thuận tiện.

Tại Việt Nam, các công cụ như: thẻ quốc tế, thẻ nội địa, ví điện tử, QR code… tồn tại song song, nhưng chưa có sự kết nối xuyên biên giới hiệu quả. Điều này khiến các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể tận dụng tối đa dòng chi tiêu của khách quốc tế, do thiếu hạ tầng thanh toán tương thích. Còn khách du lịch quốc tế, đặc biệt là khách từ Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc… gặp nhiều khó khăn khi chi tiêu tại các cửa hàng nhỏ, chợ, quán cà phê vỉa hè - nơi chưa chấp nhận thanh toán số xuyên biên giới.

“Điều này không chỉ tạo rào cản cho du khách mà còn khiến doanh nghiệp Việt Nam bỏ lỡ một lượng lớn dòng chi tiêu từ khách nước ngoài”, ông Nguyễn Hoàng Long, Phó tổng giám đốc Napas nói và cho rằng kết nối thanh toán xuyên biên giới là yêu cầu cấp thiết nếu muốn phát triển du lịch, dịch vụ và thương mại số.

Người dân thanh toán khi đi Metro số 1 nhanh gọn qua Apple Pay. Ảnh minh hoạ: TL

Trong bối cảnh trên, công nghệ blockchain và stablecoin - đồng tiền số được neo giá theo tỷ lệ 1:1 với tiền pháp định, được kỳ vọng là giải pháp bổ sung cho hệ thống tài chính, bên cạnh những phương tiện thanh toán truyền thống.

Thực tế, thời gian qua, có một dự án Basal Pay ứng dụng công nghệ blockchain, giúp người dùng chuyển đổi trực tiếp tài sản mã hoá sang tiền pháp định và ngược lại đã được UBND thành phố Đà Nẵng cấp phép thử nghiệp có kiểm soát (sandbox) vào cuối tháng 8-2025. Trong phạm vi sandbox của Đà Nẵng, người dùng có thể quy đổi từ tài sản mã hoá sang tiền pháp định trong vài giây và chi tiêu hợp pháp, góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ và gia tăng nguồn thu minh bạch cho thành phố.

Từ góc nhìn người cong cuộc, ông Trần Huyền Dinh, nhà sáng lập AlphaTrue Solutions - giám đốc dự án Basal Pay, cho biết quy mô thanh toán xuyên biên giới toàn cầu ước đạt gần 200.000 tỉ đô la Mỹ năm 2024 và có thể tăng lên 320.000 tỉ đô la vào năm 2032, theo số liệu từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS). Con số này cho thấy nhu cầu giao dịch xuyên biên giới là rất lớn, giữ vai trò cốt lõi trong hệ thống tài chính quốc tế.

Tuy nhiên, hệ thống SWIFT vẫn tồn tại nhiều hạn chế như chi phí cao và thời gian xử lý kéo dài từ vài giờ đến vài ngày, do phải qua nhiều tầng trung gian. Còn các dịch vụ chuyển tiền quốc tế như Western Union, MoneyGram giúp tiền tới tay người nhận nhanh hơn và đa dạng kênh tiếp cận, nhưng mức phí vẫn cao và thiếu minh bạch về thời gian thực.

Trong bối cảnh trên, công nghệ blockchain và stablecoin, dù không thay thế các mô hình thanh toán truyền thống, nhưng được kỳ vọng sẽ giúp nâng cao hiệu quả thanh toán, tăng cường trải nghiệm người dùng, bảo mật, giảm phí giao dịch.

Còn ông Matthew Crow, Giám đốc phát triển của Tether, cho biết tổng giá trị giao dịch stablecoin làhơn 26.000 tỉ đô la vào năm 2024, với gần 6 tỉ giao dịch được thực hiện - tăng hơn 57% so với năm 2023, theo số liệu của Coin Metrics. Đáng lưu ý, khoảng 2.100 tỉ đô la, tương tứng 8% tổng giá trị giao dịch, đến từ các giao dịch thanh toán thực như: kiều hối, thương mại điện tử, chi trả cho freelancer và thanh toán doanh nghiệp.

“Điều này cho thấy stablecoin đang dần trở thành một nền tảng thanh toán mới, bổ sung cho hệ thống quốc tế vốn còn hạn chế về tốc độ, chi phí”, ông Matthew Crow đánh giá.

Cũng theo đại diện Tether, sự dịch chuyển từ các kênh thanh toán truyền thống sang blockchain và stable coin không chỉ mang ý nghĩa toàn cầu, mà còn đặc biệt liên quan tới các nền kinh tế đang phát triển, nơi kiều hối, du lịch và lao động số chiếm tỷ trọng lớn như tại Việt Nam. Chẳng hạn, việc kết hợp stablecoin vào các mô hình thử nghiệm, điển hình là Basal Pay, có thể cung cấp thêm dữ liệu thực tiễn để đánh giá tính khả thi về việc phát triển một hạ tầng thanh toán đa dạng hơn, từ đó mở rộng khả năng hội nhập tài chính quốc tế.

Lưu ý quản trị rủi ro

Bên cạnh những kỳ vọng về việc gia tăng tốc độ xử lý và giảm chi phí với mỗi giao dịch xuyên biên giới, công nghệ blockchain và stable coin vẫn tạo ra không ít lo ngại về tính ổn định và vấn đề pháp lý. Theo pháp luật hiện hành, tiền mã hóa không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp ở Việt Nam và hiện chỉ Đà Nẵng có chính sách thí điểm kết hợp công nghệ blockchain và tài chính truyền thống, để trao đổi tài sản mã hóa với tiền pháp định.

Việt Nam đặt mục tiêu quốc gia thuộc nhóm dẫn đầu khu vực về blockchain vào năm 2030. Ảnh: TL

Ông Nguyễn Hải Nam, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, cho rằng việc có thêm một kênh thanh toán mới là vừa cơ hội nhưng cũng là thách thức. Luật Công nghiệp Công nghệ số đã được thông qua và sẽ sớm có hiệu lực để tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động công nghệ mới như blockchain. Tuy nhiên, các quốc gia vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về blockchain và stablecoin nên Việt Nam cần thận trọng, cân nhắc và áp dụng từng bước.

Thực tế, để được cấp phép thử nghiệm có kiểm soát, dự án Basal Pay phải tuân thủ các quy định pháp lý toàn cầu, đặc biệt là quy định chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố (AML/CFT). Hơn nữa, đội ngũ phát triển phải xây dựng một kiến trúc kết nối liền mạch giữa blockchain, hệ thống định danh khách hàng (KYC), cơ chế chia sẻ dữ liệu theo Travel Rule và giám sát tuân thủ AML/CFT - tức đáp ứng các chuẩn mực pháp lý toàn cầu, nhưng vẫn duy trì tốc độ xử lý, tính ổn định và chi phí hợp lý.

“Không chỉ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao về các công nghệ như dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, an ninh mạng, mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên gia pháp lý hàng đầu trong lĩnh vực tài sản số ở Việt Nam và quốc tế.Mục tiêu là đảm bảo hệ thống vừa có khả năng tuân thủ tự động, vừa đạt độ chính xác và tốc độ phản ứng trong thời gian thực”, ông Trần Huyền Dinh lưu ý.

Từ góc độ an toàn thanh toán, ông Vũ Ngọc Sơn, Trưởng ban Nghiên cứu, tư vấn, phát triển công nghệ và hợp tác quốc tế, Hiệp hội An ninh mạng quốc gia, cho biết yếu tố đe doạ an ninh mạng và xâm phạm dữ liệu cá nhân trong lĩnh vực thanh toán quốc tế ngày càng gia tăng.

Chẳng hạn, lừa đảo và giả mạo (Phishing, Spoofing) để xâm nhập tài khoản và thực hiện giao dịch xuyên biên giới; cài phần mềm độc hại (Malware, Ransomware, Trojan) để đòi tiền chuộc; rò rỉ dữ liệu cá nhân và thông tin tài chính như thẻ tín dụng, số tài khoản, KYC; xâm nhập hệ thống, tấn công chuỗi cung ứng nhờ lợi dụng lỗ hổng từ một bên thứ ba như nhà cung cấp dịch vụ fintech, cổng thanh toán, API kết nối; tấn công từ chối dịch vụ (DDoS)…

“Bản chất phức tạp và sự kết nối đa chiều của các hệ thống thanh toán quốc tế khiến chúng dễ phát sinh lỗ hổng bảo mật, trong khi mức độ an ninh giữa các quốc gia không đồng đều”, ông Sơn nói và cho biết hacker sẽ lợi dụng khối lượng giao dịch khổng lồ để rửa tiền hoặc che giấu dấu vết.

Để ngăn chặn nguy cơ, ông Sơn cho rằng các tổ chức cần cập nhật và vá lỗi phần mềm khẩn cấp, áp dụng xác thực đa yếu tố (MFA). Đồng thời, xây dựng hệ thống giám sát giao dịch bất thường bằng AI.

Với cá nhân, cần cẩn trọng khi nhận email, tin nhắn lạ liên quan đến thanh toán quốc tế, tránh sử dụng Wifi công cộng khi giao dịch tài chính và sử dụng thẻ ảo, hoặc ví điện tử có giới hạn để giảm rủi ro.

Về pháp lý và hợp tác quốc tế, cần xây dựng khung pháp lý chặt chẽ về bảo vệ dữ liệu cá nhân như Quy định chung về bảo vệ dữ liệu (GDPR). Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ thông tin tình báo mạng và thiết lập cơ chế ứng cứu khẩn cấp xuyên biên giới khi xảy ra sự cố.