CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Các chuyên gia trao đổi tại toạ đàm. Ảnh: Việt Dũng
Chia sẻ tại toạ đàm "Đảm bảo lợi ích bền vững khi sửa đổi thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có cồn" do Tạp chí Kinh tế Việt Nam/VnEconomy tổ chức ngày 31/07, bà Đinh Thị Quỳnh Vân, Chủ tịch PwC Việt Nam, cho rằng việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt là cần thiết nhưng khi đánh giá tác động, cần phân biệt hai mặt hàng này thay vì gộp chung trong nhóm đồ uống có cồn để ban hành chung chính sách sẽ không hiệu quả, không giải quyết được bài toán mong muốn.
NHẬN DIỆN HAI THỊ TRƯỜNG ĐỂ ĐIỀU HƯỚNG CHÍNH SÁCHTheo đại diện PwC, ngành rượu của Việt Nam không phát triển. Rượu là sản phẩm có độ cồn rất cao, phần lớn là nhập khẩu song nhập khẩu chính ngạch để thu được thuế lại rất nhỏ. Đáng nói, rượu thủ công, rượu không kiểm soát được nguồn gốc và chất lượng, không những không thu được thuế nhưng ảnh hưởng sức khỏe rất lớn, lại chiếm thị phần áp đảo. Ngay cả với thị trường rượu, có nhiều phân khúc như: rượu vang, rượu mạnh... với thị phần và đặc thù của thị trường cũng rất khác nhau.
Còn với thị trường bia, đến 99% mặt hàng này sản xuất trong nước và kiểm soát được chất lượng, với ba phân khúc giá và giá bán lẻ bình quân dưới 33.000 đồng/lít, tương ứng khoảng 10.000-11.000 đồng/lon bia. Như vậy, phần lớn là mặt hàng chính ngạch và tỷ lệ làm giả, sản xuất thủ công cũng không lớn, khi tăng giá 5-10% có thể đánh giá mức độ ảnh hưởng.
Chúng ta cũng nên đánh giá ảnh hưởng của bia và rượu đến sức khỏe cũng khác nhau, chứ không nên gộp chung, bởi rượu có nồng độ cồn cao hơn, còn bia có nồng độ cồn chỉ khoảng 5%, có loại hơn chục độ. Hơn nữa, hành vi của người tiêu dùng với bia và rượu cũng rất khác nhau.
Trong Luật Phòng, chống tác hại bia, rượu cũng đề cập đến việc lạm dụng, chứ không cấm uống nên cần có biện pháp hạn chế tiêu dùng rượu, bia.
Về tác động đến sức khỏe, chính sách thuế có giải quyết được vấn đề giảm lượng tiêu thụ cồn hay không cũng là vấn đề cần phải xem xét kỹ.
Phân tích ảnh hưởng hành vi người dùng, bà Vân cho rằng thị trường rượu phần lớn là thủ công và nhập lậu, do đó càng tăng thuế thì tiêu thụ rượu thủ công và nhập lậu càng lấn sân, gây ảnh hưởng đến sức khỏe càng lớn. Về thị trường bia, ảnh hưởng của mặt hàng này đối với sức khỏe đến mức độ nào và có nhất thiết phải hạn chế tiêu dùng đến mức như vậy hay không cũng chưa có câu trả lời thấu đáo.
Với kinh nghiệm nghiên cứu, tư vấn về thuế nhiều quốc gia, lãnh đạo PwC Việt Nam cũng nhận thấy phần lớn các nước trên thế giới đánh thuế suất đồ uống theo nồng độ cồn khi nhận thấy rất rõ tác hại đến sức khỏe, tức bia, rượu có nồng độ cồn càng cao, sẽ chịu thuế càng cao.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay những sản phẩm bia có độ cồn thấp, ít tác hại đến sức khoẻ lại có giá cao nên đôi khi sẽ phải nộp tiền thuế nhiều hơn các sản phẩm có độ cồn cao hơn.
Hiện tại Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia đã quy định sản phẩm bia theo các mức nồng độ cồn khác nhau (dưới 5,5 độ, từ 5,5 đến dưới 15 độ và trên 15 độ). Khi coi nồng độ cồn là nhân tố gây tác hại và chính sách thuế là một trong những công cụ hữu hiệu để điều chỉnh hành vi người tiêu dùng, điều hướng sử dụng những sản phẩm chất lượng cao, độ cồn thấp để tránh tác hại lên sức khoẻ, nhiều ý kiến đề xuất đánh thuế tương đối dựa trên nồng độ cồn với mặt hàng bia, thay vì cào bằng một mức như trước (65%).
Điều này có nghĩa là cần thiết phải chia biểu mức thuế suất khác nhau tương ứng với độ cồn khác nhau, độ cồn càng cao thì thuế suất càng tăng.
Về đánh giá tác động của chính sách, bà Vân cũng cho rằng không chỉ phân tích dưới góc độ ảnh hưởng đến nhà sản xuất mà phải xem xét ảnh hưởng đến cả các hệ thống phân phối, các tác động về mặt xã hội.
Ngoài ra, tác động của Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt có hiệu quả hơn rất nhiều lần việc tăng thuế, bởi vì hạn chế ngay lập tức việc sử dụng rượu, bia. Đây cũng là một trong những biện pháp chúng ta đã áp dụng. Do đó, cần nghiên cứu kỹ tác động của nhiều chính sách trong việc hạn chế tiêu thụ rượu, bia.
THUẾ SUẤT TƯƠNG ĐỐI Ở MỨC CAO DỄ GÂY PHẢN ỨNGCũng theo bà Đinh Thị Quỳnh Vân, PwC Việt Nam cũng xây dựng mô hình để tính toán, xem xét ảnh hưởng của các phương án Bộ Tài chính đề xuất đối với doanh nghiệp.
Đánh giá tác động của chính sách tăng thuế lên giá bán và sản lượng tiêu thụ, theo bà Vân, điều này phải phụ thuộc vào nhiều giả thiết như: độ co giãn của cầu (PE - Price elasticity) thể hiện độ nhạy của lượng cầu trước thay đổi về giá của hàng hoá, các yếu tố khác về dân số, thu nhập...
Hiện giá xuất xưởng vào khoảng 70% khi tính trên giá bán ra tại các cửa hàng tiện ích hay siêu thị. Thuế tiêu thụ đặc biệt tính trên giá xuất xưởng, cho nên tăng thuế 10% khiến tăng giá bán lẻ khoảng 5 - 7%. Đến năm 2030, do ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, theo tính toán của PwC, tổng doanh thu của các doanh nghiệp sẽ giảm khoảng 10%.
Do thời gian ngắn, hiện PwC cũng chưa tính đến đến ảnh hưởng đến người lao động khi giảm sản lượng cũng như các yếu tố khác. Ngoài ra, mô hình mới tính toán tác động kỹ với mặt hàng bia, còn ngành rượu do không có con số, thống kê chính thức nên ảnh hưởng sẽ lớn hơn dự đoán.
Làm rõ hơn về phương pháp đánh thuế, theo lãnh đạo PwC, mỗi chính sách thuế và mỗi mô hình tại mỗi quốc gia đều có những đạo lý, ý tưởng đằng sau và cũng không thể nói rằng đó là đúng hay sai.
Điều bà Vân còn băn khoăn là theo lộ trình tăng thuế tại dự thảo về thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế suất đối với bia sẽ tăng lên đến 90% hoặc 100% vào năm 2030, vậy từ sau năm 2030 sẽ tăng đến đâu cũng không được đề cập.
Đó cũng là lý do rất nhiều quốc gia đánh thuế theo phương pháp tuyệt đối hoặc hỗn hợp, để người dân và doanh nghiệp cảm thấy dễ chấp nhận.
Chẳng hạn, thuế suất thuế tuyệt đối là 2.000-3.000 đồng/lít, nhiều khi về cảm giác sẽ tốt hơn là tăng thuế rượu, bia lên đến 100% hay 150% lập tức gây những phản ứng, một phần do tâm lý.
Lại cũng có ý kiến cho rằng có thể giữ mức thuế suất lớn như vậy để đưa ra một thông điệp không khuyến khích người dân tiêu thụ nhiều rượu, bia.
Vì vậy, Chủ tịch PwC Việt Nam gợi mở rằng Việt Nam liệu nên xem cả phương án hỗn hợp, đánh thuế cả tuyệt đối và tương đối, sau đó nghiên cứu chuyển dần sang tuyệt đối hay không, để tiếp tục lộ trình tăng thuế suất trong tương lai, tạo sự đồng thuận khi truyền thông. Hơn nữa, đánh thuế theo phương pháp tương đối tính trên lít giúp công tác thu thuế đơn giản và tránh chuyển giá hay các vấn đề phát sinh không mong muốn.