CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Trong một thế giới đề cao năng suất và sản lượng, sự độc đáo về hương vị và chất lượng của các giống bản địa đôi khi lại trở thành một điểm yếu khi so sánh với những giống lai tạo, nhập ngoại. Điều này đang tạo nên một sự thay đổi lặng lẽ nhưng đầy tính chất mất mát trong ngành nông nghiệp.
Mất mát không chỉ là câu chuyện kinh tế
Bà Nguyễn Thị Thu Liên, Hiệp Hội Thực phẩm Minh Bạch (AFT), đã bày tỏ sự trăn trở về một đặc sản lừng danh: Nhãn Phố Hiến (Hưng Yên) có vị đậm đà và hương vị khó quên. Nhưng ngày nay, nhiều nhà vườn chiều theo thị hiếu người tiêu dùng thích quả to, cùi dày nên họ đã thay giống hoặc ghép cành… làm mất hết bản sắc của nhãn lồng Phố Hiến.
Câu chuyện tương tự cũng đang diễn ra với nhiều giống vật nuôi đặc trưng. Ông Vừ Tồng Pó, thành viên HTX dịch vụ Nông nghiệp và du lịch cộng đồng xã Mường Lống (Nghệ An), chia sẻ về giống gà đen bản địa của người Mông tại địa phương.
“Nếu các loại gà bình thường giá chỉ khoảng 150.000 đồng/kg thì gà đen bản địa của người Mông ở Nghệ An giá phải từ 200.000 đồng/kg”. Mức giá cao cho thấy giá trị của giống gà này, nhưng cũng vì chạy theo thị trường và lợi nhuận trước mắt mà giống gà bản địa đang có nguy cơ bị lai tạp, dẫn đến suy thoái nguồn gen.
Sự biến mất của những giống bản địa không chỉ là một mất mát đơn thuần về mặt kinh tế đối với người dân và HTX mà còn tạo ra một khoảng trống lớn về văn hóa, sinh thái và cả an ninh lương thực quốc gia.
Bảo tồn và phát triển giống bản địa là phải đưa những giống đó trở lại với cuộc sống, với thị trường.
Mỗi giống cây, con là một hệ gen độc đáo, được thiên nhiên và con người chọn lọc, thích nghi qua hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng địa phương. Chính quá trình tiến hóa này đã tạo ra những sản phẩm có hương vị đặc trưng, chất lượng vượt trội mà không giống nhập ngoại nào có thể thay thế. Các HTX sản xuất sản phẩm OCOP đều cần đến những giống đặc trưng gắn với giá trị văn hóa để nâng cao giá trị kinh tế và hoàn thiện câu chuyện sản phẩm.
Giá trị của các giống bản địa vượt xa giá trị kinh tế tức thời. Đó là giá trị của sự đa dạng sinh học và sự chống chịu với biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, giống lúa nếp Tú Lệ (Lào Cai) hay giống gà H’Mông (vùng cao phía Bắc), mỗi loại đều mang một câu chuyện riêng, một giá trị riêng mà bất kỳ sản phẩm nào khác cũng khó thay thế.
Để hiểu rõ hơn về sự độc đáo này, bà Trần Thị Bắc, Giám đốc HTX sản xuất nhãn lồng Nễ Châu (Hưng Yên), đã chia sẻ chi tiết về một trong những giống nhãn quý của địa phương. Bà cho biết: Nhãn cổ cùi Vân là một trong những giống nhãn đặc sản quý hiếm của Hưng Yên, bên cạnh các giống nhãn nổi tiếng khác như cùi cổ và đường phèn. Đây là một giống nhãn có cùi dày, giòn, hương vị thơm ngon và vị ngọt đậm. Đặc biệt, nhãn này có lớp cùi mang họa tiết giống như đám mây cuộn hoặc vẩy tê tê nên được gọi là nhãn cùi Vân.
Khi những giống cây, con này biến mất, chúng ta không chỉ mất đi một sản phẩm nông nghiệp mà hơn thế, sự biến mất của các giống bản địa còn làm suy giảm khả năng chống chịu của hệ sinh thái nông nghiệp trước những biến đổi khí hậu bất thường và những dịch bệnh mới.
Những điểm sáng và rào cản từ cơ sở
Dù bức tranh tổng thể có phần u tối, nhưng vẫn có những điểm sáng đáng trân trọng. Tại nhiều địa phương, các HTX đã nhận ra tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát triển các giống bản địa. Điển hình như HTX sản xuất nhãn lồng Nễ Châu đã thành công trong việc bảo tồn và phát triển các giống nhãn đặc sản quý hiếm.
Các giống nhãn đặc sản như nhãn cổ cùi Vân và nhãn đường phèn quả vuông có giá khá cao nhưng rất được khách hàng ưa chuộng, chủ yếu dùng làm quà biếu. Hiện nay, HTX đã có 18 ha trồng nhãn, trong đó có hơn 6 ha dành riêng cho các giống đặc sản này. Điều này không chỉ giúp nâng cao thu nhập mà còn góp phần bảo tồn và phát triển những giống nhãn đặc sản của địa phương.
Một ví dụ khác là tại HTX Yến Dương (Thái Nguyên), nơi đã thành công trong việc bảo tồn và phát triển giống bí xanh thơm đặc trưng của người dân địa phương. HTX đã xây dựng một quy trình sản xuất bền vững, từ việc chọn giống, canh tác theo phương pháp truyền thống đến xúc tiến thương mại, chế biến, xây dựng thương hiệu, giúp sản phẩm có đầu ra ổn định và giá trị cao.
Những thành công này là minh chứng cho thấy nỗ lực từ cơ sở là cần thiết và có hiệu quả. Tuy nhiên, đối với các HTX, quá trình này vẫn gặp rất nhiều khó khăn và cần sự đồng hành của các ngành chức năng.
Như tại HTX Nễ Châu, những cây nhãn cổ dù sai trĩu quả, cùi rất ngọt và được nhiều người sành ăn ưa chuộng nhưng theo các thành viên, thực tế những cây nhãn cổ cũng khó chăm sóc, nhất là với HTX có nhiều người lớn tuổi vì cây nhãn cổ thường to, tán rộng nên rất khó thu hoạch.
Bên cạnh đó, HTX đã chú trọng tìm hiểu và sản xuất theo quy trình hữu cơ. Bốn năm nay, sản phẩm của HTX mang đi test đều đạt 900 chỉ tiêu. Nhưng HTX vẫn còn những trở ngại nhất định nên chưa chọn con đường lấy chứng nhận.
Rõ ràng, việc đạt chuẩn hữu cơ là một hành trình dài và tốn kém, không chỉ về chi phí mà còn về thủ tục, quy trình…khiến nhiều HTX dù đủ tiêu chuẩn chất lượng vẫn chùn bước.
Ngoài ra, vấn đề thị trường cũng là một rào cản lớn. Năm nay, HTX Nễ Châu đã được một số đơn vị vận chuyển, cơ quan, hiệp hội hỗ trợ đưa nhãn đến tay người tiêu dùng Hà Nội với giá ưu đãi cho ngày mở vườn là 40.000 đồng/kg với thùng 5kg. Tuy nhiên, việc mở rộng thị trường ra các thành phố lớn hơn như TP. Hồ Chí Minh lại là một thách thức.
Theo bà Nguyễn Thị Thu Liên, nhãn của HTX hiện rất muốn tiêu thụ vào thị trường TP.HCM. Nhưng tính toán cho thấy, một xe container lạnh vào trong đó hết khoảng 35 triệu đồng cho 16 tấn là tối thiểu. Do đó, muốn vận chuyển vào Sài Gòn, điều quan trọng là phải bán được với số lượng lớn và phải tìm được mối vận chuyển phù hợp.
Từ thực tiễn này cho thấy, bảo tồn không chỉ dừng lại ở việc giữ gìn trong các ngân hàng gen, mà quan trọng hơn là phải đưa những giống đó trở lại với cuộc sống, với thị trường. Để làm được điều này, cần có một chiến lược tổng thể từ cấp Nhà nước đến địa phương.
Trong đó, cần có những chính sách ưu đãi về vốn, kỹ thuật cho các HTX, nông dân tham gia bảo tồn và phát triển giống bản địa. Vì việc nghiên cứu, hay đưa những giống này ra thị trường cần tuân thủ và đạt chứng nhận nhất định. Và việc này, đối với các HTX không chỉ là vấn đề thời gian mà còn ở khâu thủ tục, chi phí đi kèm.
Nỗ lực của HTX Nễ Châu khi kiên trì sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, đi test đạt 900 tiêu chí trong 4 năm qua nhưng chưa có chứng nhận vì những trở ngại nhất định đã nêu là một ví dụ điển hình cho thấy sự cần thiết của sự hỗ trợ từ chính sách của Nhà nước.
Huyền Trang