CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Nâng tầm tín chỉ carbon Việt trong mắt nhà đầu tư

Invest Global 08:52 14/08/2025

(KTSG Online) - Tín chỉ carbon cần một mức giá tương xứng với những giá trị đi kèm, không chỉ là giảm phát thải mà còn lan tỏa tới hệ sinh thái, cộng đồng

(KTSG Online) - Tín chỉ carbon cần một mức giá tương xứng với những giá trị đi kèm, không chỉ là giảm phát thải mà còn lan tỏa tới hệ sinh thái, cộng đồng và xã hội.

Tín chỉ carbon rừng chất lượng cao: cung không đủ cầu dù giá caoChuyển xe máy xăng sang xe điện, liệu có đổi được tín chỉ carbon?Khai phá ‘mỏ vàng’ tín chỉ carbon xe điện

Tín chỉ carbon tại Việt Nam đắt hay rẻ?

Cuối năm 2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn bán 10,3 triệu tấn CO2 cho Ngân hàng Thế giới (WB), thu về 51,5 triệu đô la Mỹ, tương đương 5 đô la/tín chỉ carbon. Sau thương vụ này, Việt Nam có kế hoạch bán 6 triệu tấn CO2, với giá 10 đô la/tín chỉ cho chương trình LEAF (Lowering Emissions in Asia’s Forests) của tổ chức phi lợi nhuận Emergent.

Ngoài hai dự án trên, một dự án khác được hỗ trợ bởi Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) giúp Việt Nam bán tối đa 30 triệu tấn CO2 với giá 150 triệu đô la cho quỹ GCF (Green Climate Fund) của Liên Hợp Quốc định nộp đề xuất vào 2025. Với mục tiêu này, giá mỗi tín chỉ carbon sẽ ở mức 5 đô la.

Việt Nam ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon và thu về hàng trăm triệu đô la mỗi năm. Ảnh: H.P

Những thông tin này, dù là tín hiệu tích cực để thúc đẩy sản phẩm tín chỉ carbon tại Việt Nam, nhưng cũng phát sinh nhiều tranh luận xung quanh việc giá bán có quá thấp, nhất là trong bối cảnh đơn giá tín chỉ carbon bình quân đạt khoảng 147 đô la, theo nghiên cứu của WB.

Theo các chuyên gia, việc định giá tín chỉ carbon dựa trên nguyên tắc cung – cầu, tương tự mọi loại tài sản khác. Do đó, trên thị trường tín chỉ carbon bắt buộc, tín chỉ carbon sẽ không ngừng tăng giá, bởi hạn ngạch phát thải cấp cho mỗi doanh nghiệp sẽ bị giảm xuống, khiến nhu cầu tăng cao.

Điều này cũng lý giải cho mức đơn giá cao của tín chỉ carbon bắt buộc trên thế giới. Chẳng hạn, tại châu Âu, giá tín chỉ carbon đã tăng hơn 1.400% nhờ hệ thống thương mại khí thải (EU ETS) chính thức hoạt động kể từ năm 2005.

Ngược lại, trên thị trường tín chỉ carbon tự nguyện, đơn giá của tín chỉ carbon có thể dao động từ một đến vài trăm đô la, tùy thuộc vào các phương pháp định giá.

Tại một tọa đàm do Đại học Nông Lâm TPHCM tổ chức, TS Phạm Thu Thủy, chuyên gia Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR), cho rằng mức giá giao dịch chỉ carbon tại thương vụ bán 10,3 triệu tấn CO2 thực tế là "lãi ròng". Bởi thương vụ này là một phần trong chương trình “Giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ", được tài trợ triển khai bởi sáng kiến FCPF (Forest Carbon Partnership Facility) cũng thuộc Wolrd Bank và cơ chế quốc tế REDD+, chuyên hỗ trợ giảm phát thải từ nạn phá rừng và suy thoái rừng.

“Với việc WB hỗ trợ triển khai và mua thành quả là tín chỉ carbon, 5 đô la Mỹ thực tế là lãi ròng", bà Thuỷ lưu ý.

Cũng theo chuyên gia này, việc xác định mức giá bán tín chỉ carbon là đắt hay rẻ phải dựa trên điều khoản chi tiết trên hợp đồng giao dịch, qua đó xá định giá bán là lãi ròng hay tổng chi phí trọn gói mà bên bán phải bỏ vốn ra triển khai. Chẳng hạn, khi Chính phủ Singapore đặt vấn đề mua tín chỉ carbon từ Chính phủ Peru với mức giá 8 đô la/tín chỉ, nhưng kèm cam kết hàng hoá Peru nhập khẩu vào thị trường Singapore sẽ được giảm thuế. "Vì vậy, không đơn giản là giá bao nhiêu mà là điều kiện đi kèm", bà Thủy lưu ý.

Làm gì để bán tín chỉ carbon giá cao?

Theo kế hoạch của Chính phủ, sàn giao dịch carbon trong nước sẽ được vận hành thí điểm từ năm nay đến hết năm 2028, trước khi vận hành chính thức vào năm 2029. Điều này mở ra cơ hội lớn về tài chính cho các dự án giảm phát thải.

Chuyển đổi xanh yêu cầu doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, nhưng lại là cơ hội giúp doanh nghiệp mở rộng khai thác thị trường và bán được tín chỉ carbon. Ảnh: Trung Chánh

Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), hàng vạn nông hộ đã triển khai thí điểm trồng lúa phát thải thấp, hướng tới thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha lúa chuyên canh phát thải thấp, chất lượng cao đến năm 2030. Điển hình là mô hình luân canh lúa – tôm, kết hợp với “công cụ” là gạo ST25 tại bán đảo Cà Mau của ông Hồ Quang Cua.

Cụ thể, với sự phối hợp cùng các cơ quan liên quan và bà con nông dân, ông Cua triển khai canh tác trên nguyên lý “cây khỏe nhờ đất khỏe và không gian sống hài hòa”. Các giải pháp như rút khô (rút cạn nước trên ruộng vào giữa mùa và cuối mùa) được áp dụng để đẩy mạnh vòng tuần hoàn vi sinh, bổ sung dưỡng chất cho đất. Bên cạnh giải đó là pháp bảo vệ loài thiên địch để diệt sâu hại, bảo vệ cây lúa một cách tự nhiên.

Điều này đã tạo ra hàng ngàn ha lúa được canh tác theo các tiêu chí xanh của Bộ Nông nghiệp và môi trường, gồm: giảm lượng giống, giảm phân bón, giảm nước tưới và giảm thuốc trừ sâu. Kết quả, việc giảm vật tư đầu vào giúp giảm chi phí đầu tư liên quan, đồng thời tạo ra sản phẩm gạo ngon, tôm khỏe vì không nhiễm hóa chất, bán được giá cao.

“Bà con nông dân tăng gấp đôi thu nhập. Đó là chưa kể đến nguồn lợi từ tín chỉ carbon, có thể sắp trở thành hiện thực khi Chính phủ đang gấp rút thực hiện các giải pháp thí điểm thị trường carbon trong thời gian sớm nhất”, ông Cua lưu ý.

Bên cạnh mô hình của ông Cua, nhiều hệ sinh thái giảm phát thải tự nhiên như rừng ngập mặn vùng ĐBSCL, hay các rặng san hô ven biển đang được người dân các địa phương tích cực bảo tồn, chờ ngày được công nhận chính thức bằng tín chỉ carbon.

Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp và môi trường, Việt Nam có thể bán 57 triệu tín chỉ carbon mỗi năm, thu về khoảng 300 triệu đô la. Với trường hợp giá cao hơn, doanh thu từ thị trường này có thể lớn hơn nhiều so với ước tính.

Tuy nhiên, khung khổ pháp lý chưa hoàn thiện dẫn tới khó khăn trong việc thiết lập một thị trường carbon đúng nghĩa, nơi việc phát thải – giảm phát thải được ghi nhận và chi trả theo cơ chế thị trường công bằng, minh bạch.

Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất mía đường tại tỉnh Thanh Hóa thực hiện chuyển nhượng tín chỉ carbon cho đối tác. Tuy nhiên, ngay trong khâu cấp phép triển khai dự án cơ quan chức năng tỏ ra lúng túng vì chưa có khung pháp lý cụ thể.

Với mô hình lúa – tôm của ông Hồ Quang Cua, việc chưa đo đếm được con số giảm phát thải thực tế, dù đã thực hiện đúng các tiêu chí giảm phát thải canh tác lúa của Bộ Nông nghiệp và môi trường, khiến bản thân ông chưa thể xác định rõ mình có bao nhiêu “hàng” để bán.

Đây cũng là nút thắt cho nhiều dự án giảm phát thải khi chưa có khung đo đếm cụ thể và cũng không phải đơn vị nào cũng đầy đủ nguồn lực về công nghệ, tài chính và trình độ để tự đo đếm

Do đó, điều ông Cua mong mỏi mô hình được kiểm đếm và bán tín chỉ carbon cho doanh nghiệp để người dân được hưởng lợi từ thành quả giảm phát thải, làm nông nghiệp “thuận thiên” và tuần hoàn.

Từ góc nhìn chuyên gia, bà Betty Pallard, CEO ESG Climate Consulting, thừa nhận các loại tín chỉ carbon từ rừng, nông nghiệp hay một số loại tín chỉ liên quan đến dự án hỗ trợ sinh kế và đời sống người dân, đã thỏa mãn phần nào yêu cầu để bán được giá cao. Nhưng để tích hợp những yếu tố này vào giá bán tín chỉ carbon, việc điều đầu tiên cần làm là đảm bảo tính minh bạch về dữ liệu, thông qua xác định rõ phương pháp tính toán, theo dõi số liệu giảm phát thải và quy đổi tín chỉ carbon.

“Một dự án có được tính minh bạch về tác động là điều kiện tiên quyết để kêu gọi sự tham gia của nhà đầu tư, đặc biệt là các dự án liên quan đến phát triển bền vững”, bà Betty Pallard lưu ý.

Tiếp đó, cần phải truyền tải những giá trị lan tỏa của dự án giảm phát thải tạo ra tín chỉ cảbon. Cụ thể như hệ sinh thái được phục hồi toàn vẹn tại các cánh rừng, giải pháp canh tác bền vững giúp gia tăng sinh kế của bà con nông dân, hay những giá trị về lịch sử, văn hóa truyền thống của Việt Nam trong mỗi phương pháp giảm nhẹ phát thải dựa vào tự nhiên.

Theo chuyên gia này, bằng cách phân định rõ các giá trị vượt trội, tín chỉ carbon của Việt Nam có thể bán được giá cao, đem lại lợi ích kinh tế bền vững và tương xứng với những nỗ lực của doanh nghiệp, người dân.

Môi trường kinh doanh