CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2025: “Bức tranh nhiều gam sáng”

Invest Global 09:54 11/08/2025

Tiếp nối xu hướng tích cực của 6 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp trong tháng 7/2025 vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định; trong đó, ngành chế biến, chế tạo...

Tiếp nối xu hướng tích cực của 6 tháng đầu năm, sản xuất công nghiệp trong tháng 7/2025 vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định; trong đó, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vai trò là động lực dẫn dắt tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Đáng chú ý, sau sáp nhập, cả 34 địa phương đều có chỉ số sản xuất tăng…

Theo số liệu mới nhất được Cục Thống kê (BộTài chính) công bố, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 7/2025 ước tăng0,5% so với tháng trước và tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7tháng năm 2025, IIP ước tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2024tăng 8,5%).

CHẾBIẾN, CHẾ TẠO TIẾP TỤC LÀ ĐỘNG LỰC CHÍNH

Báo cáo của Cục Thống kê cho thấy sự tăngtrưởng của ngành công nghiệp 7 tháng năm 2025 chủ yếu được dẫn dắt bởi bốn nhómngành chính; trong đó, ngành chế biến, chế tạo là điểm sáng nổi bật nhất khităng trưởng tới 10,3%, cao hơn mức tăng 9,6% của cùng kỳ năm 2024. Với quy mô lớn,ngành này đã đóng góp tới 8,5 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung, trởthành trụ đỡ chính cho toàn ngành công nghiệp.

Sự tăng trưởng của ngành công nghiệp trong7 tháng năm 2025 còn được thể hiện rõ nét qua chỉ số sản xuất của các ngành trọngđiểm cấp II. Trong đó, nhiều ngành ghi nhận mức tăng trưởng hai con số, phảnánh nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất đang được cải thiện.

Bên cạnh đó, ngành cung cấp nước và xử lýrác thải, nước thải cũng ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ tới 10,4% (cùng kỳnăm 2024 tăng 7,1%), đóng góp 0,1 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phốiđiện tăng trưởng 4,6%, đóng góp 0,4 điểm phần trăm, tuy nhiên tốc độ tăng củangành này đã chậm lại đáng kể so với mức tăng 12,0% của cùng kỳ năm 2024. Ngànhkhai khoáng giảm 2,7%, làm giảm 0,4 điểm phần trăm trong mức tăng chung, nhưngmức giảm này đã được thu hẹp so với mức giảm 6,6% của cùng kỳ năm 2024.

Cụ thể, sản xuất xe có động cơ tăng 29,9%;sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,9%; sản xuất da và các sản phẩmcó liên quan tăng 15,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng14,8%; sản xuất trang phục tăng 14,5%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng12,2%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng11,0%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,9%; sản xuất kim loại tăng 10,1%;sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,0%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tínhvà sản phẩm quang học tăng 7,9%.

Điểm đáng chú ý trong báo cáo của Cục Thốngkê là sau sáp nhập, chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng năm 2025 so với cùng kỳnăm trước tăng ở cả 34 địa phương. Trong đó, một số địa phương có chỉ số sản xuấtcủa ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao là: Quảng Ninh tăng 32,0%; PhúThọ tăng 26,9%; Ninh Bình tăng 23,4%; Lai Châu tăng 20,1%; Thanh Hóa tăng17,2%; Huế tăng 16,7%. Các địa phương có chỉ số sản xuất của ngành sản xuất vàphân phối điện tăng cao, gồm: Huế tăng 43,2%; Nghệ An tăng 27,3%; Lai Châu tăng17,0%; Quảng Ngãi tăng 11,9%; Phú Thọ tăng 7,5%

Liên quan đến tình hình lao động đang làmviệc trong các doanh nghiệp công nghiệp, báo cáo của Cục Thống kê cũng cho thấynhững tín hiệu khả quan. Cụ thể, tại thời điểm 1/7/2025 tăng 1,0% so với cùngthời điểm tháng trước và tăng 3,9% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó, tỷlệ tương ứng của doanh nghiệp Nhà nước cùng tăng 0,5% so với cùng thời điểmtháng trước và cùng thời điểm năm trước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàităng 1,2% và tăng 4,6%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước tăng 0,6% và tăng 2,7%. Điềunày cho thấy niềm tin của doanh nghiệp vào triển vọng sản xuất kinh doanh đangđược củng cố.

Trong kết quả chung của toàn ngành côngnghiệp 7 tháng năm 2025, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vai trò đầutàu trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến ngày 31/7/2025,lĩnh vực này đã thu hút được 5,61 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, chiếm tới 55,9% tổngvốn đăng ký cấp mới của cả nước.

Nếu tính cả vốn đăng ký mới và vốn đăng kýđiều chỉnh của các dự án đã được cấp phép từ những năm trước, tổng vốn FDI vàongành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 12,12 tỷ USD, chiếm 60,6% tổng vốn đăngký cấp mới và tăng thêm. Điều này cho thấy không chỉ các dự án mới được cấpphép, mà các dự án hiện hữu cũng đang tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, kinhdoanh, một tín hiệu tích cực cho thấy sự ổn định và tiềm năng tăng trưởng củangành.

TÍNHIỆU TÍCH CỰC TỪ THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA

Trong kết quả chung của toàn ngành côngnghiệp 7 tháng năm 2025, ngành chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vai trò đầutàu trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tính đến ngày 31/7/2025,lĩnh vực này đã thu hút được 5,61 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, chiếm tới 55,9% tổngvốn đăng ký cấp mới của cả nước.

Một trong những yếu tố quan trọng đánh giásự tăng trưởng của ngành công nghiệp là Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI).Trong báo cáo được công bố vào đầu tháng 8/2025, S&P Global (Nhà cungcấp hàng đầu các chỉ số và nguồn dữ liệu xếp hạng tín dụng độc lập) cũng đã ghinhận PMI của Việt Nam trong tháng 7/2025 đạt 52,4 điểm, lần đầu tiên vượt ngưỡng50 điểm sau bốn tháng.

Nền tảng cho sự cải thiện của chỉ số PMIchính là sự tăng trưởng trở lại của số lượng đơn đặt hàng mới. Đây là lần đầutiên trong bốn tháng, các doanh nghiệp sản xuất ghi nhận sự gia tăng về số lượngđơn hàng, đáng chú ý hơn, tốc độ tăng trưởng này được ghi nhận là nhanh nhất kểtừ tháng 11/2024. Sự phục hồi này chủ yếu đến từ nhu cầu trong nước, một minhchứng cho thấy sức mua nội địa đang dần được cải thiện và trở thành bệ đỡ quantrọng cho các nhà sản xuất trong bối cảnh thị trường xuất khẩu gặp khó khăn.

 “Việcsố lượng đơn đặt hàng mới tăng đã tạo ra một hiệu ứng lan tỏa tích cực. Sự giatăng của các đơn hàng nội địa là một tín hiệu quan trọng, cho thấy ngành sản xuấtViệt Nam không hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Đồng thời thể hiệnkhả năng tự thích ứng của nền kinh tế”, S&P Global nhận định.

Tuy nhiên, trái ngược với sự khởi sắc củathị trường trong nước, báo cáo của S&P Global cho biết hoạt động xuất khẩutiếp tục là một “gam màu xám” trong bức tranh toàn cảnh của ngành sản xuất.Theo đó, số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tiếp tục suy giảm, kéo dài chuỗisuy giảm này lên tới chín tháng liên tiếp. Nguyên nhân chính là do tác độngtiêu cực từ chính sách thuế quan của Hoa Kỳ.

“Thuế quan của Hoa Kỳ đã và đang tạo ra mộtrào cản lớn, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tại một trong nhữngthị trường xuất khẩu quan trọng nhất. Các doanh nghiệp tham gia khảo sát đã bàytỏ lo ngại về vấn đề này, và cho rằng thuế quan đã ảnh hưởng trực tiếp đến khảnăng tìm kiếm và duy trì các đơn hàng mới từ Hoa Kỳ”, S&P Global nhấn mạnh.

Theo S&P Global, tác động này không chỉlàm giảm kim ngạch xuất khẩu trực tiếp, mà còn gây ra những hệ lụy sâu rộnghơn: (i) làm suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư và doanh nghiệp vào sự ổn địnhvà có thể dự báo của môi trường kinh doanh; (ii) buộc các doanh nghiệp phải tìmkiếm các thị trường thay thế, một quá trình đòi hỏi thời gian, nguồn lực vàkhông phải lúc nào cũng có thể bù đắp được sự sụt giảm từ một thị trường lớnnhư Hoa Kỳ; (iii) tạo ra một áp lực cạnh tranh gay gắt hơn trên các thị trườngkhác, khi nhiều quốc gia cũng đang phải đối mặt với những rào cản tương tự.

Ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tạiS&P Global Market Intelligence, nhận định ngành sản xuất Việt Nam đangtrong quá trình phục hồi sau những gián đoạn do thông báo về thuế quan của HoaKỳ gây ra trong những tháng gần đây. Mặc dù các công ty đã thành công trong việcđảm bảo đủ đơn hàng từ các thị trường khác để bù đắp và giúp tổng số đơn hàng mớităng trở lại, nhưng sự suy yếu kéo dài của lĩnh vực xuất khẩu vẫn là một yếu tốrủi ro không thể xem nhẹ. Câu chuyện thuế quan một lần nữa cho thấy sự rủi ro củachuỗi cung ứng toàn cầu và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong bốicảnh địa chính trị ngày càng phức tạp.

Ngành sản xuất Việt Nam đang trong giai đoạnchuyển mình quan trọng. Sự phục hồi dựa vào sức mạnh nội tại là một tín hiệutích cực, cho thấy khả năng tự thích ứng của nền kinh tế. Tuy nhiên, để đảm bảosự phát triển bền vững, Việt Nam cần phải giải quyết các thách thức lớn từ bênngoài, bao gồm việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tối ưu hóa chuỗi cung ứngvà các nỗ lực ngoại giao thương mại nhằm giảm thiểu tác động từ các rào cản thuếquan. Con đường phía trước vẫn còn nhiều “chông gai”, đòi hỏi sự linh hoạt từdoanh nghiệp và sự hỗ trợ hiệu quả từ các chính sách vĩ mô.

Môi trường kinh doanh