CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
(KTSG Online) – Thị trường tín chỉ carbon rừng được đánh giá có nhiều tiềm năng để phát triển. Tuy nhiên, các chuyên gia về tín chỉ carbon cho rằng thị trường này vẫn đang gặp nhiều rào cản khi chưa có khung pháp lý, hướng dẫn chưa chi tiết và rõ ràng. Các dữ liệu sử dụng trong đo đạc, báo cáo phát thải; cũng như thông tin về đầu tư, kết nối doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.
Trung Quốc dán nhãn ‘dấu ấn’ carbon cho nông sảnDoanh nghiệp có thể mua tín chỉ bù đắp carbon ở đâu?Chiều ngày 22-8, Trường Đại học Nông Lâm TPHCM phối hợp Trung tâm nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR) và Đại học Adelaide (Úc) tổ chức chương trình tọa đàm “Chia sẻ, cập nhật thông tin về thị trường carbon từ hệ sinh thái rừng ven biển” tại TPHCM.
Theo Tiến sĩ Trần Đình Lý, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TPHCM, các hệ sinh thái ven biển và đất ngập nước bao gồm rừng ngập mặn, đầm lầy, thủy triều, cỏ biển… đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Không những vậy, hệ sinh thái này còn đảm bảo sinh kế và an sinh xã hội cho cộng đồng ven biển. Các nghiên cứu chỉ ra rằng rừng ngập mặn và đất ngập nước có khả năng hấp thụ carbon rất nhiều so với hệ sinh thái khác.
Nói thêm về tiềm năng kinh doanh tín chỉ carbon rừng, Tiến sĩ Vũ Tấn Phương, Giám đốc Văn phòng chứng chỉ quản lý rừng bền vững thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cho biết, Việt Nam có nhiều tiềm năng tạo tín chỉ carbon trong lâm nghiệp. Cụ thể, rừng ngập mặn khoảng 15.000 hecta, 80% phân bố ở phía Nam. Bãi triều khoảng 18.000 hecta, chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long. Cỏ biển khoảng 15.637 hecta với 66% ở khu vực đảo Phú Quốc.
Trữ lượng carbon ở rừng ngập mặn cao với khoảng 8,7 triệu tấn carbon (chiếm 1,4% tổng trữ lượng carbon trong hệ sinh thái rừng). Như vậy, hệ sinh thái rừng Việt Nam có tiềm năng khoảng 612 triệu tấn carbon, ông Phương cho biết thêm.
Tại chương trình tọa đàm “Chia sẻ, cập nhật thông tin về thị trường carbon từ hệ sinh thái rừng ven biển” vào chiều ngày 22-8, các chuyên gia cho rằng Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng. Ảnh: Minh ThảoMặc dù nước ta có thị trường tín chỉ carbon rừng đầy tiềm năng nhưng các chuyên gia cho rằng hiện nay, việc phát triển thị trường này vẫn đang còn nhiều thách thức.
“Với tiềm năng lớn trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, các hệ sinh thái ven biển đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trên thị trường carbon toàn cầu. Tuy nhiên, thị trường carbon xanh từ hệ sinh thái này vẫn chưa được khai thác và phổ biến rộng rãi. Bởi việc khai thác tiềm năng này gặp nhiều thách thức trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững các hệ sinh thái rừng ven biển”, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm TPHCM nói. Ngoài ra, việc thiếu thông tin và sự hạn chế trong giao dịch tín chỉ carbon xanh cũng gây khó khăn trong việc phát triển các dự án carbon hiệu quả.
Cũng theo ông Phương, việc phát triển thị trường carbon trong lĩnh vực lâm nghiệp đang gặp nhiều thách thức. Cụ thể là những khung pháp lý, hướng dẫn chưa chi tiết và rõ ràng về đầu tư, quyền carbon, chia sẻ lợi ích giữa các bên. Các dữ liệu sử dụng trong đo đạc, báo cáo phát thải; thông tin về đầu tư, kết nối doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.
Không những vậy, “những thông tin và tài chính để xây dựng các dự án tín chỉ carbon rừng vẫn còn hạn chế. Đặc biệt, năng lực kỹ thuật trong xây dựng, thực hiện dự án carbon rừng như xây dựng dự án, đo đạc, báo cáo, thẩm định phát thải khí nhà kính, theo dõi, giám sát… cũng chưa được quy định rõ ràng. Đó cũng là những thách thức trong quá trình phát triển thị trường này”, Tiến sĩ Phạm Thu Thủy, đại diện Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế (CIFOR) và Đại học Adelaide (Úc) chia sẻ thêm.
Tại buổi toạ đàm, nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam cần có chiến lược, kế hoạch đồng bộ để phát triển thị trường tín chỉ carbon rừng. Cụ thể, nước ta cần có những cơ chế, chính sách, giải pháp khuyến khích, thu hút cácnhà đầu tư phát triển thị trường tín chỉ này. Song song đó là đảm bảo năng lực kỹ thuật trong toàn bộ quá trình thực hiện, đặc biệt là năng lực về xây dựng dự án, đo đạc, báo cáo và thẩm định. Cuối cùng, trong quá trình thực hiện, các đơn vị cần đảm bảo minh bạch, công khai thông tin, dữ liệu và thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn môi trường xã hội.