CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Đứng ở góc độ của một doanh nghiệp (DN) hàng đầu về xuất khẩu (XK) gạo thơm chất lượng cao, ông Phạm Thái Bình, Tổng giám đốc CTCP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An, cho rằng ngành hàng lúa gạo Việt Nam đang mở ra xu hướng đa dạng hóa thị trường và đa dạng hóa các nguồn hàng để XK vào các thị trường khó tính. Đây là một trong những hướng đi tương đối đột phá và đúng đắn.
Còn nhiều việc phải làm cho hướng đi bền vững
Dẫn chứng như Nhật Bản hiện không đủ để cung cấp gạo cho nội địa, ông Bình cho biết thị trường này đang yêu cầu nhập khẩu gạo của Việt Nam rất nhiều.
Ngành hàng lúa gạo Việt còn nhiều việc phải làm và làm tốt hơn nữa cho hướng đi dài hạn, bền vững.
Cũng nên nhắc lại, cách đây 2 tháng, lần đầu tiên Công ty Trung An đã XK 500 tấn gạo Japonica mang nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” đến thị trường Nhật Bản.
“Chúng tôi đang nỗ lực để đi vào những thị trường khó tính và XK thêm mặt hàng gạo gắn nhãn “Gạo Việt xanh phát thải thấp”. Nhất là khi hiện nay tất cả những loại gạo gắn với an toàn vệ sinh thực phẩm, có trách nhiệm với cộng đồng thì nhu cầu tiêu dùng trên thế giới đang rất cần”, ông Bình chia sẻ.
Riêng về tác động chính sách thuế đối ứng 20% của Mỹ, vị tổng giám đốc Công ty Trung An nhận định XK gạo của Việt Nam vào Mỹ chiếm tỷ trọng rất ít nên việc ảnh hưởng trực tiếp là không có. Tuy nhiên, do thuế đối ứng của Mỹ áp trên toàn bộ các quốc gia trên thế giới (đặc biệt là các nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam như Philippines, Indonesia, Malaysia…) và các quốc gia này đang cân đối lại tình hình thuế quan để đối ứng lại với Mỹ, trong đó có vấn đề nhập khẩu từ Việt Nam.
Đơn cử như Philippines (thị trường XK gạo lớn nhất của Việt Nam, chiếm thị phần trên 40% kim ngạch XK) đang điều tiết lại lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam. Nước này vừa có lệnh ngừng nhập khẩu gạo trong vòng 60 ngày kể từ ngày 1/9/2025
Như vậy là XK gạo của Việt Nam đang chịu tác động gián tiếp từ chính sách thuế đối ứng đối với những quốc gia nhập khẩu gạo Việt. Philippines hay các quốc gia khác cũng bị áp thuế đối ứng của Mỹ, cho nên phải cân đối lại tình hình nhập khẩu gạo và các mặt hàng khác nhằm bảo vệ sản xuất nội địa. Đây có thể sẽ là yếu tố tác động trong ngắn hạn cho ngành lúa gạo Việt Nam khi các hợp đồng bị tạm dừng, gây dư cung và giảm giá trị XK.
“Giải pháp duy nhất cho ngành hàng lúa gạo Việt trước tác động từ chính sách thuế đối ứng hay những biến động khó lường khác là phải phát triển bền vững. Có như vậy, dù cho thế giới có “ngả nghiêng”, chính sách của các quốc gia khác có thay đổi gì đi chăng nữa thì Việt Nam vẫn chủ động được trong XK”, ông Bình bộc bạch.
Vị tổng giám đốc này cũng khẳng định gạo Việt Nam đang có lợi thế là mặc dù gạo từ Ấn Độ hay Thái Lan có “xả kho” hay giảm giá nhưng một số quốc gia vẫn không thể lấy nguồn gạo đó để thay thế gạo Việt. Rõ ràng đây là thế mạnh nhờ vào việc xây dựng và quảng bá được thương hiệu gạo Việt, đặc biệt khẩu vị gạo của chúng ta phù hợp với nhu cầu của nhiều quốc gia. Thế nhưng, điều rất tiếc là để phát triển ổn định và bền vững thì còn nhiều việc phải làm và làm tốt hơn nữa.
Bên cạnh những chia sẻ nêu trên, nên nhắc đến chỉ đạo mới nhất của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong trung tuần tháng 8/2025 đối với XK gạo. Theo đó, để duy trì vị thế (Hiệp hội XK gạo Thái Lan cho biết Việt Nam đã vượt qua Thái Lan để thành nước XK gạo lớn thứ hai thế giới trong 6 tháng đầu năm 2025) thì chiến lược dài hạn, hướng đi bền vững phải là chuyển sang XK gạo chất lượng cao, gạo hữu cơ, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu quốc gia. Nếu không, vị trí số hai hiện tại có thể chỉ là một “đỉnh sóng” ngắn ngủi giữa chu kỳ dư cung và biến động khí hậu toàn cầu.
Thủ tướng Chính phủ cũng thúc giục đẩy nhanh thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030.
Củng cố năng lực và tận dụng lợi thế cạnh tranh
Xét về thực hiện Đề án phát triển bền vững 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao tại ĐBSCL, ở góc độ địa phương, đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Tp.Cần Thơ cho biết đến hết năm 2025 sẽ xây dựng được vùng sản xuất lúa chuyên canh chất lượng cao và phát thải thấp với quy mô diện tích 104.500 ha và đến năm 2030 đạt 170.000 ha.
Còn theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, diện tích lúa chất lượng cao đạt chuẩn phát thải thấp theo Đề án 1 triệu héc-ta tính đến nay đã đạt 150.151/144.051 ha (đạt 104% kế hoạch năm 2025) với sản lượng trên 900 ngàn tấn, các lô hàng này đã XK thành công sang thị trường Nhật Bản và Châu Âu với giá trị cao.
Mặt khác, Dự án Chuyển đổi Chuỗi giá trị Lúa gạo ứng phó với Biến đổi Khí hậu (TRVC) ở An Giang cũng đạt kết quả tích cực khi 7 tháng đầu năm 2025 đã mở rộng lên 12.479,33 ha với sản lượng trên 80.000 tấn lúa (tăng gấp 4 lần so với cả năm 2024). Hồi năm rồi có 7 DN được chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp” với tổng diện tích 3.229,92 ha, sản lượng trên 20.000 tấn.
Và một trong những giải pháp mà Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang đặt ra với ngành hàng lúa gạo trong các tháng cuối năm 2025 cũng như thời gian tới là nên tăng cường và củng cố năng lực, vai trò của HTX nông nghiệp để là cầu nối giữa người sản xuất và DN. Đồng thời đẩy mạnh các liên kết ngang (liên kết cung ứng các dịch vụ, vật tư đầu vào) và liên kết dọc (liên kết với DN để tiêu thụ theo hợp đồng). Qua đó, tăng cường DN ký hợp đồng bao tiêu với nông dân thông qua HTX và tổ hợp tác.
Còn đứng ở góc độ quản lý, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ rõ giải pháp thị trường đối với XK gạo trong 5 tháng cuối của năm 2025. Theo đó, đối với thị trường Mỹ cần tiếp tục duy trì thị phần XK, tận dụng lợi thế cạnh tranh để gia tăng thị phần gạo thơm khi Thái Lan và Ấn Độ là hai nhà cung cấp phân khúc này lớn nhất nhì vào thị trường Hoa Kỳ nhưng chịu mức thuế cao.
Đối với thị trường truyền thống và tiềm năng khác, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cần tiếp tục duy trì các thị trường truyền thống có thị phần lớn như Philippines, Indonesia, Malaysia để giữ thị trường. DN cần tìm kiếm thêm thị trường XK và đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào để giảm áp lực thuế.
Ngoài ra, các DN cũng nên nghiên cứu chuyển dịch mạnh sang các thị trường EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore (đối với các sản phẩm chế biến như bún, mì, nui, phở). Cùng với đó, các DN cần tìm giải pháp giảm chi phí logistics để mở rộng sang các thị trường tiềm năng Ghana, Bờ Biển Ngà và UAE với chủng loại gạo thơm và gạo trắng.
Thế Vinh