CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

TS. Lê Xuân Nghĩa: 'Nên cân nhắc việc giảm lãi suất'

Invest Global 09:24 01/12/2021

Bàn về các gói giải pháp phục hồi kinh tế trong thời gian tới, TS. Lê Xuân Nghĩa khuyến nghị nên tránh việc đưa ra gói kích thích tài trợ lãi suất như năm 2009. Bởi cách làm này không đạt hiệu quả như mong muốn khi đẩy lạm phát tăng cao.

Tại Toạ đàm "Dẫn mạch phục hồi tăng trưởng kinh tế" ngày 30/11, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, trong các cuộc khủng hoảng, các nước trên thế giới không kéo ngân hàng vào cuộc. Bởi vì sau cuộc khủng hoảng, doanh nghiệp vất vả nhất sẽ là các ngân hàng thương mại vì phải xử lý “núi nợ xấu”. Vì vậy, Chính phủ các nước sẽ sử dụng trực tiếp "tiền tươi" từ ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp.

Ông Nghĩa dẫn chứng, trong cuộc khủng hoảng năm 2009, việc đưa ra gói kích thích tài trợ lãi suất đã đẩy tốc độ tăng trưởng tăng lên rất cao, kéo theo lạm phát. “Đấy là cách làm không đạt hiệu quả như mong muốn, thứ hai là năng lực quản trị của ngân hàng trung ương thời điểm đó chưa được như bây giờ khiến nhiều ngân hàng rơi vào khó khăn, nợ xấu”, ông Nghĩa nói.

khoi-phuc-nen-kinh-te-8246-1638268694.jp

Sau khủng hoảng, ngân hàng sẽ rất vất vả để xử lý nợ xấu. (Ảnh: Int)

Phân tích về dòng tiền của các ngân hàng hiện nay, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, mặc dù lợi nhuận 9 tháng năm 2021 tại nhiều ngân hàng tăng trưởng tích cực. Song kết quả này có được một phần nhờ chính sách cho phép giãn hoãn, cơ cấu lại các khoản nợ vay giúp hàng loạt nợ xấu trở thành “không xấu”. Tuy nhiên, sau thời gian cơ cấu, nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng mạnh.

Vì vậy, ông Nghĩa cho rằng, cơ quan quản lý nên giảm bớt liều lượng dần đối với gói giãn hoãn, đồng thời cho ngân hàng trích lập rủi ro nhiều hơn để dự phòng rủi ro nợ xấu trong tương lai.

Bàn về các gói giải pháp phục hồi kinh tế trong thời gian tới, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, nếu phải thực hiện việc giảm lãi suất thì phải kiên quyết đạt được 4 nguyên tắc: Một là không kéo các ngân hàng thương mại vào cuộc. Các doanh nghiệp vay đúng chuẩn mực hiện nay, doanh nghiệp nào có nhu cầu tài trợ thì đến Bộ Tài chính.

Hai là không kéo dài kế toán kiểm toán và xử lý tài chính. Bởi tới đây, hạch toán của ngân hàng là vô cùng phức tạp trong khi đến nay, chúng ta vẫn chưa quyết toán xong gói hỗ trợ lãi suất từ năm 2009.

Ba là không làm méo mó lãi suất thị trường. Việc không cấn trừ ngay lãi suất cho vay sẽ giúp lãi suất hệ thống ngân hàng tránh được tình trạng bị méo mó. “Khoản cho vay đắt, khoản cho vay rẻ là điều tối kị, bởi sẽ dẫn đến việc vay chỗ rẻ rồi cho vay lại”, ông Nghĩa nhấn mạnh.

Bốn là không đẩy ngân hàng thương mại vào rủi ro có thể có.

Chia sẻ thêm về giải pháp hỗ trợ nền kinh tế trong thời gian tới, bà Bùi Thuý Hằng, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết: Hiện, mặt bằng lãi suất giảm so với năm 2020 khoảng 0,5-0,7% là mức giảm khá lớn so với các nước trong khu vực, NHNN đã có sự điều chỉnh mạnh trong năm 2020. Với bối cảnh lạm phát năm 2021, việc tiếp tục hạ lãi suất huy động thời gian tới thực sự không khả thi, có thể gây xáo trộn lớn cho nguồn vốn, ảnh hưởng đến thanh khoản toàn hệ thống.

“Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo giảm lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng. Ở góc độ lãi suất thị trường hiện nay khá thấp, quan ngại của NHNN về an toàn hệ thống nên việc điều hành lãi suất thời gian tới đảm bảo hài hòa”, bà Hằng khẳng định.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến lo ngại, nếu tiếp tục giảm lãi suất, lạm phát sẽ gia tăng trong thời gian tới. Mặc dù cho rằng NHNN đã có kinh nghiệm kiểm soát lạm phát một cách chặt chẽ, bài bản, song ông Nghĩa đặt vấn đề: “NHNN nên cân nhắc việc giảm lãi suất. Bởi các ngân hàng trung ương trên thế giới dự kiến tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát”.

Ở góc độ quốc tế, ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng châu Á (ADB) tại Việt Nam cho rằng, việc siết lại các chính sách tiền tệ, tài khóa của các nước phát triển sẽ có ảnh hưởng nhưng không mạnh đối với các nền kinh tế châu Á như năm 2013.

“Về chính sách tiền tệ, Việt Nam sử dụng tương đối nhiều dư địa của chính sách này và đến ngưỡng phải cân nhắc về sự an toàn. Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, nếu tiếp tục gây áp lực thì sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế”, ông Cường bày tỏ quan điểm.

Khuyến nghị của ADB là chính sách tài khóa sẽ là trụ cột chính, bên cạnh sự hỗ trợ của chính sách tiền tệ. Theo ADB và các tổ chức khác, các chính sách tài khóa của Việt Nam mới hỗ trợ khoảng 2% GDP, là mức rất thấp so với các nước trong khu vực, cho thấy chúng ta hoàn toàn có dư địa để tăng lên. Nhưng quan trọng hơn là hiệu quả, nếu không thực hiện nhanh, hiệu quả thì về mặt số lượng cũng không có ý nghĩa nhiều.

Thanh Hoa