CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Tình hình kinh tế Việt Nam chịu tác động tiêu cực của dịch COVID-19, tốc độ tăng trưởng rất thấp, hàng vạn doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, hàng triệu người lao động mất việc làm, giảm thu nhập, đầu tư nước ngoài tăng trưởng chậm và chất lượng chưa phù hợp với định hướng mới.
Tình hình kinh tế
Covid 19 bắt đầu từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc đã lan rộng ra hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá có mức độ nghiêm trọng hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008.
Nền kinh tế thế giới là một mạng lưới cực kỳ phức tạp gồm các chuỗi cung ứng sản phẩm giữa nhiều quốc gia; đó chính là điều đáng lo nhất khi đánh giá hậu quả kinh tế của virus corona. Thời gian tới chúng ta sẽ biết được điều gì xảy ra khi mạng lưới đó bị xé toạc, khi hàng triệu kết nối bị phá hủy cùng lúc và viễn cảnh kinh tế toàn cầu khác hoàn toàn so với những gì đã tồn tại những thập niên vừa qua.
Adam Tooze, nhà sử học tại Đại học Columbia bình luận: “Đây là thời kỳ của bất trắc cực độ, một sự bất trắc lớn hơn so với bất kỳ thứ gì chúng ta từng trải qua”.
Bộ GTVT bác thông tin sửa chữa cầu Thăng Long bằng công nghệ Trung Quốc
Tại châu Á, kinh tế Nhật Bản suy giảm mạnh trong nửa đầu năm và có khả năng tăng trưởng âm trong cả năm. Kinh tế Trung Quốc chịu tác động tiêu cực từ dịch công thêm cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung có xu hướng leo thang, quý 1 tăng trưởng âm và phục hồi chậm chạp trong nửa đầu năm, nên các nhà hoạch định chính sách của nước này không đặt ra mục tiêu tăng trưởng cả năm.
Trong ASEAN-5 dự báo kinh tế Phillipines suy giảm - 0,1%, Thái Lan - 1,8%, Malaysia tăng trưởng 0,7% và Indonesia tăng trưởng 3%.
Covid 19 đã buộc phải gián cách xã hội, tạm dừng giao dịch với nước ngoài làm cho một số ngành và lĩnh vực kinh tế như du lịch, dịch vụ, hàng không, đường sắt, đường bộ, khu nghĩ dưỡng, khách sạn và nhà hàng, hoạt động vui chơi giải trí chịu tác động trực tiếp, nhiều mực tiêu kinh tế- xã hội không được thực hiện, do đó 6 tháng đầu năm 2020 GDP Việt Nam tăng 1,81% so với cùng kỳ năm trước, thấp nhất trong giai đoạn 2011- 2020.
Theo Tổng cục Thống kê, tính đến cuối tháng 7/2020, tông mưc ban lẻ hang hoa va doanh thu dich vu tiêu dung đạt 2 794,6 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động vận tải trong nước tháng sáu có xu hướng khôi phục với mức tăng 13,4% lượng hành khách và tăng 7,3% lượng hàng hóa so với tháng trước. Tính chung 6 tháng, vận tải hành khách đạt 1.812,6 triệu lượt người, giảm 27,3%; vận tải hàng hóa đạt 807,9 triệu tấn hàng hóa vận chuyển, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Vận tải ngoài nước của các hãng hàng không gần như đình trệ. Khách quốc tế đến Việt Nam giảm khoảng 80%.
Cả nước có 75.200 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký là 936,4 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 598,6 nghìn người, giảm 5,1% số doanh nghiệp, giảm 6,3 vốn đăng ký và giảm 19,5% số lao động. Doanh nghiệp trở lại hoạt động tăng 17,6%. Doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, làm thủ tục phá sản giảm 12,2%.
Tăng trưởng của công nghiệp đạt 2,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,96%, thấp hơn mức tăng của cùng kỳ hàng năm trong giai đoạn 2011-2020.
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 7 tháng năm 2020 ước tính đạt 285,12 tỷ USD, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 145,79 tỷ USD, tăng 0,2%; nhập khẩu đạt 139,33 tỷ USD, giảm 2,9%.
Khu vực kinh tế trong nước là điểm sáng trong hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam khi kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu đạt 50,76 tỷ USD, tăng 13,5%; nhập khẩu đạt 61,86 tỷ USD, tăng 1,5%.
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục giảm cả về giá trị cũng như tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu cả nước. Xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt trên 95 tỷ USD, bằng 94,3% so với cùng kỳ, chiếm 65,2% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch nhập khẩu của khu vực ĐTNN đạt gần 77,5 tỷ USD, bằng 93,9% so cùng kỳ và chiếm 55,6% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Mặc dù vậy khu vực ĐTNN vẫn xuất siêu gần 17,6 tỷ USD kể cả dầu thô, bù đắp nhập siêu 11,1 tỷ USD của khu vực trong nước, giúp cả nước xuất siêu gần 6,5 tỷ USD.
Theo kết quả khảo sát 930 hộ gia đình dễ bị tổn thương của Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội và Nhân văn thì: Thu nhập trung bình của hộ gia đình dân tộc thiểu số tháng 4 bằng 25,0% và tháng 5/2020 bằng 35,7% tháng 12/2019, của hộ gia đình người Kinh các con số tương ứng là 30,3% và 52%. Thu nhập trung bình của hộ di cư tháng 4 bằng 25,1% và tháng 5/2020 bằng 42,2% tháng 12/2019.
Tỷ lệ chuyển dịch lao động trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản là 2,1%, xây dựng là 2,2%, thương mại và dịch vụ là 2,7%, du lịch và dịch vụ có liên quan là 10,8%.
Đảng và Nhà nước đã chủ trương “chống dịch như chống giặc”, từ giữa tháng 4 khi về cơ bản đã kiểm soát được dịch thì đồng thời để ra các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá, phục hồi tăng trưởng kinh tế bằng kich thích tiêu dùng và khuyến khích đầu tư, mở rộng thị trường trong nước là những định hướng quan trọng trong những tháng cuối năm 2020; trên cơ sở đó đề ra nhiều giải pháp như trợ giúp doanh nghiệp và người lao động gặp khó khăn, mất việc làm, giảm, miễn, hoãn nộp thuế, giảm lãi suất tiền vay, kích cầu nội địa, giải ngân vốn đầu tư công.
Trong bối cảnh dịch Covid 19 đang diễn biến khá phức tạp, WHO cảnh báo về nguy cơ bùng phát giai đoạn 2 có thể kéo dài thời gian dập dịch, nhiều nước tiếp tục biện pháp han chế giao dịch, cộng thêm các cuộc đối đầu giữa một số nước lớn làm cho nền kinh tế có độ mở khá rộng của Việt Nam chịu tác động bởi những cú sốc bất ngờ về giá cả thị trường, thương mại và đầu tư thế giới, một số FTA thế hệ mới có thể chưa mang lại kết quả như mong muốn do giao thương bị giãn cách.
Trong bối cảnh khu vực và quốc tế hiện nay, Việt Nam có những lợi thế về khả năng phòng chống cuộc khủng hoảng có tính toàn cầu như dịch Covid 19, ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội với môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện, mặc dù chưa được như mong đợi của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Hai dấu hiệu cho thấy khả năng phục hồi kinh tế là hiện hữu: 1) du lịch trong nước từ giữa tháng 5 đến nay với những gói kích cầu khá hấp dẫn đã thu hút hàng triệu khách, các điểm du lịch nghỉ dưỡng chật kín người, từ đó khôi phục ngành ăn uống, vui chơi, giải trí, vận chuyển hành khách bằng hàng không, đường sắt và đường bộ; 2) Các doanh nghiệp coi trọng hơn thị trường trong nước nên hàng hóa, dịch vụ được cung ứng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn với giá cả hợp lý; đồng thời nhiều doanh nghiệp chuyển đổi phương thức kinh doanh phù hợp với kinh tế số, nhất là thương mại điện tử, dịch vụ thông qua smartphone đã đáp ứng được nhu cầu của các tầng lớp dân cư.
Trong bối cảnh quốc tế biến động khôn lường khó đưa ra dự báo chính xác, nhưng dù sao cũng cần có vài ba kịch bản để định hướng cho các ngành, địa phương chung sức thực hiện. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Dự báo quốc gia và một số viện nghiên cứu đã dự báo nhiều kịch bản, trong đó có hai kịch bản chính:
Kịch bản thứ nhất nước ta kiềm chế được dịch Covid 19, hoạt động kinh tế trong nước dần trở lại bình thường, nhưng dịch tiếp tục diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia như Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản, Braxin, Indonesia; nước ta mới khôi phục vận chuyển hàng không với một số nước nên khách du lịch đến Việt Nam tăng dần, thương mại quốc tế và thu hút FDI của Việt Nam chưa trở lại bình thường; do vậy tăng trưởng kinh tế cả năm 3,5%- 4%.
Kịch bản thứ hai, mặc dù nước ta đã kiềm chế được dịch, nhưng trên thế giới dịch tái bùng phát mạnh, nhiều nước phải kéo dài thời gian gián cách xã hội đến cuối năm, thậm chí lâu hơn làm cho xuất khẩu một số mặt hàng của Việt Nam bị giảm sút, kéo theo sản xuất trong nước tăng trưởng thấp và các ngành dịch vụ công nghiệp bị thu hẹp, du lịch quốc tế chậm hồi phục… Theo kịch bản này, tăng trưởng kinh tế cả năm 2,5%- 3%.
Đầu tư nước ngoài
Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KHĐT), mặc dù vốn đăng ký cấp mới và vốn điều chỉnh tăng hơn so với cùng kỳ, song vốn góp của các nhà ĐTNN theo hình thức GVMCP vẫn tiếp tục giảm, làm giảm tổng vốn đầu tư thu hút được trong 8 tháng đầu năm.
Cụ thể, có 1.797 dự án mới được cấp GCNĐKĐT (giảm 25,3% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt 9,73 tỷ USD (tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2019). Vốn đầu tư tăng chủ yếu là do dự án Nhà máy điện khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) Bạc Liêu được cấp GCNĐKĐT mới với tổng vốn đầu tư 4 tỷ USD (chiếm 41,1% tổng vốn đăng ký mới).
Bên cạnh đó, có 718 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 20,9% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt trên 4,87 tỷ USD (tăng 22,2% so với cùng kỳ). Vốn điều chỉnh trong 8 tháng tăng do có Dự án tổ hợp hoá dầu Miền Nam Việt Nam tại Bà Rịa - Vũng Tàu (Thái Lan) điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 1,386 tỷ USD và dự án Khu Trung tâm đô thị tây hồ Tây (Hàn Quốc) điều chỉnh tăng vốn đầu tư thêm 774 triệu USD.
Mặc dù số lượt dự án GVMCP chỉ giảm nhẹ (giảm 8,2% so với cùng kỳ), nhưng tổng giá trị vốn góp sụt tới gần 50% so với cùng kỳ, chỉ đạt 4,93 tỷ USD sau 8 tháng. Điều này trái ngược nhiều dự báo trước đây rằng M&A sẽ là hình thức thu hút mạnh vốn FDI trong thời gian tới. Có thể thấy rõ điều này qua cơ cấu giá trị góp vốn, mua cổ phần trong tổng vốn đầu tư so với cùng kỳ năm 2019, từ gần 42% trong 8 tháng năm 2019 xuống 25,2% trong 8 tháng năm 2020.
Cục Đầu tư nước ngoài cũng đánh giá, do tác động của đại dịch COVID-19, kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tiếp tục giảm. Xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 113,3 tỷ USD, bằng 95,5% so với cùng kỳ, chiếm 65,1% kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu không kể dầu thô đạt 112,2 tỷ USD, bằng 95,7% so với cùng kỳ năm 2019, chiếm 64,4% kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 8 tháng năm 2020.
Chất lượng dự án FDI là vấn đề cần được quan tâm, có quá nhiều dự án quy mô khoảng 1 triệu USD trong sản xuất và chế tạo, kể cả ở Hà Nội và TPHCM trong khi nước ta đã có gần 800 nghìn doanh nghiệp, rất nhiều doanh nghiệp có đủ vốn và tiềm lực công nghệ, nhân lực để thực hiện các dự án đó.
Chưa có nhiều dự án công nghệ cao, công nghệ tương lai, dịch vụ hiện đại đã được Bộ Chính trị đề ra định hướng thu hút FDI tại Nghị quyết 50/BCT.
Dịch Covid 19 tác động tiêu cực đối với giòng vốn đầu tư toàn cầu, theo UNCTAD thì năm 2020 khó đạt được 1.000 tỷ USD; trong khi cách đây hai năm đã đạt đến 1.800 tỷ USD. Khi vốn đầu tư mới sụt giảm nghiêm trọng thì do tình trạng đứt gãy nhiều chuỗi cung ứng toàn cầu nên đang đẩy nhanh xu hướng dịch chuyển doanh nghiệp FDI từ Trung Quốc về nước như chủ trương của Chính phủ Mỹ, Nhật Bản, một phần sang nước thứ ba, trong đó Việt Nam được lựa chọn ưu tiên hàng đầu.
Sự chuyển dịch này đã bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XXI “ Trung Quốc + 1”; cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung khiến nhiều công ty nước ngoài kinh doanh tại Trung Quốc phải tìm hướng đi mới để tránh bị áp thuế quá cao khi xuất khẩu hàng hóa vào Mỹ; trong khi chi phí nhân công tại Trung Quốc ngày càng tăng, do đại dịch nên nguồn cung hàng hóa tại Trung Quốc có thể bị tắc nghẽn.
Trong bối cảnh đó nhiều TNCs “tư duy lại” chiến lược thương mại và đầu tư toàn cầu theo hướng đa dạng hóa nguồn cung để giảm thiểu rủi ro, thay vì dựa chủ yếu vào Trung Quốc.
Mới đây, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua gói 2,2 tỷ USD để hỗ trợ các DN nước này chuyển dời những ngành sản xuất quan trọng ra khỏi Trung Quốc.
Nhiều nước trong EU có kế hoạch cắt giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp Trung Quốc. Mỹ muốn hợp tác với các đối tác ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương thành lập “Mạng lưới thịnh vượng kinh tế” thúc đẩy phát triển kinh tế toàn cầu.
Ngày 29/4/2020 Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cho biết, nước này đang trao đổi với Australya, Ấn Độ, Nhật, New Zealand, Hàn Quốc và Việt Nam để “đưa kinh tế toàn cầu tiến lên”; đồng thời kêu gọi cả khu vực Mỹ Latin tham gia liên minh này.
Ông Nicolas Audier, Chủ tịch Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) đánh giá, Việt Nam hiện đang có vị thế tốt để đón đầu các cơ hội đầu tư kinh doanh mới và đẩy mạnh phát triển kinh tế ổn định nhờ cách tiếp cận chủ động song hành, vừa chống dịch Covid-19 vừa kích thích kinh tế. “Những hành động này cũng giúp duy trì niềm tin của cộng đồng DN châu Âu rằng Việt Nam luôn là điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn, cạnh tranh về kinh doanh” Chủ tịch EuroCham nhận định.
Ông Hong Sun, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN Hàn Quốc tại Việt Nam (Korcham) cho biết, với môi trường kinh doanh ổn định, giải pháp chống dịch hiệu quả của Chính phủ Việt Nam, Korcham sẽ tiếp tục giới thiệu các DN có chất lượng vào đầu tư tại Việt Nam, đảm bảo chủ trương thu hút FDI có chọn lọc theo Nghị quyết 50 của Bộ Chính trị về đầu tư nước ngoài.
Ông Takeo Nakajima, Trưởng đại diện Văn phòng Xúc tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO) tại Hà Nội cho biết, 15 doanh nghiệp Nhật Bản không dịch chuyển sang Việt Nam như một số phương tiện truyền thông đã đưa thời gian qua, mà đầu tư tại Việt Nam nhằm mở rộng và đa dạng chuỗi cung ứng theo chương trình của Chính phủ Nhật Bản tài trợ vốn để khuyến khích doanh nghiệp nước này đầu tư tại Việt Nam.
“Mục đích của chương trình này là mở rộng chuỗi cung ứng, hay đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Không phải là việc chuyển sản xuất từ nước này sang nước kia”, ông Takeo Nakajima nhấn mạnh.
Tại sao chọn Việt Nam? “Thực ra nó có nhiều lý do, mỗi doanh nghiệp lại có lý do khác nhau. Tuy nhiên khi nói đến khu vực ASEAN, Việt Nam hiện nay là điểm sáng trong việc kiểm soát COVID-19”, Trưởng đại diện Jetro tại Hà Nội cho biết.
Cho dù phải hết sức thậm trọng với xu thế mới nhưng cũng cần coi là cơ hội để Việt Nam đón nhận làn sóng đầu tư mới, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng cao năng lực ngành chế biến, chế tạo và dịch vụ chất lượng cao.
Chúng tôi nhận định: Trung Quốc với thị trường 1,4 tỷ dân, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, có ưu thế nổi trội về công nghệ, quy mô doanh nghiệp lớn nên dù Mỹ, Nhật Bản chủ trương hỗ trợ, gây sức ép nhưng chỉ khoảng 10% nhà máy chuyển từ Trung Quốc về nước, đại bộ phận tìm cách ở lại đó, một số khác khoảng 3-5% chuyển sang nước thứ ba, trong đó Việt Nam thuộc các quốc gia được ưu tiên lựa chọn.
Cần lưu ý rằng, đến cuối năm 2019 Trung Quốc đã thu hút được trên 2000 tỷ USD vốn FDI thực hiện trong đó có nhiều dự án của 500 TNCs hàng đầu thế giới; thì khoảng 100 tỷ USD vốn chuyển sang nước thứ ba là con số khá hấp dẫn đối với Việt Nam, nếu so sánh với 21 tỷ USD vốn FDI thực hiện năm 2019 của nước ta (khoảng 80% là của nhà đầu tư nước ngoài).
Có nhiều phương thức chuyển dịch, nhanh nhất và dễ nhất là chuyển đơn đặt hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam để tận dụng ưu đãi thuế quan, đặc biệt là quy tắc xuất xứ sản phẩm trong FTAs thế hệ mới; một số doanh nghiệp chuyển một phần hoặc toàn bộ nhiệm vụ sản xuất từ nước khác sang Việt Nam để khai thác lợi thế về nhân công và tiền lương, về giá tiền thuê đất và ưu đãi thuế; có doanh nghiệp di dời toàn bộ nhà máy sang Việt Nam, phương thức này đòi hỏi thời gian tương đối dài để hoàn tất thủ tục tại nước đang vận hành, đồng thời làm nhiều thủ tục có liên quan để chuyển nhà máy sang nước ta.
Theo những thông tin gần đây, đã có nhiều TNCs đạt được thỏa thuận với Bộ Kế hoạch & Đầu tư và một số địa phương về việc di dời sang Việt Nam hàng chục xí nghiệp FDI quy mô với vốn đầu tư vài chục tỷ USD. Điển hình là Apple (Mỹ) chuyển xí nghiệp từ Trung Quốc sang nước ta để sản 30% tai nghe không giây xuất khẩu, Panasonic (Nhật Bản) chuyển toàn bộ nhà máy sản xuất điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh, máy giặt từ Băng Cốc sang Hà Nội; một tập đoàn kinh tế Đài Loan đã tiếp xúc với lãnh đạo tỉnh Bắc Giang để đầu tư dự án công nghệ cao, vốn đầu tư 4 tỷ USD; do đó UBND tỉnh Bắc Giang kiến nghị với Chính phủ cho xây dựng khu công nghiệp 500 ha để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
Cần lưu ý rằng, đã xuất hiện một số đối thủ cạnh tranh về sự dịch chuyển này. Thủ tướng Ấn Độ- nước có thế mạnh về thị trường 1,3 tỷ người, hàng năm số kỷ sư tốt nghiệp đại học nhiều nhất thế giới, công nghệ thông tin phát triển- tuyên bố đã có sẵn đất sạch với các ưu đãi cao để thu hút 1000 xí nghiệp lớn chuyển sang nước này. Tổng thống Indonesia- nước có dân số gần gấp ba lần Việt Nam, GDP trên 1000 tỷ USD vừa ra lệnh xây dựng khu công nghiệp 400 ha với nhiều ưu đãi để đón nhận xí nghiệp quy mô lớn dịch chuyển sang nước này.
Từ những phân tích trên đây có thể dự báo thu hút FDI năm 2020 sẽ đạt được mục tiêu về số lượng của Nghị quyết 50/BCT với vốn thực hiện 21- 22 tỷ USD. Tuy vậy, nếu các bộ, chính quyền địa phương và Ban Quản lý KCN, KKT, KCNC ý thức đầy đủ việc lựa chọn dự án và nhà đầu tư thì mới có thể đạt được chất lượng cao hơn 6 tháng đầu năm.
Giải pháp
Nước ta vừa phải hết sức cảnh giác, không chủ quan, áp dụng các giải pháp kịp thời và có hiệu quả để phòng chống dịch; đồng thời khai thác mọi tiềm năng để nhanh chóng khôi phục kinh doanh của ngành, lĩnh vực chịu tác động lớn nhất như du lịch, vận chuyển hàng không, được bộ, đường sắt, nhà hàng, khách sạn; khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài, khai thác tốt hơn đầu tư công để kích thích tăng trưởng kinh tế của 6 tháng cuối năm 2020, tạo tiền đề để gia tăng tốc độ phát triển của giai đoạn 2021- 2025.
Các giải pháp chủ yếu:
1) Chính phủ đã có những giải pháp hổ trợ tín dụng như cơ cấu lại nợ cũ, giản hoãn nợ, giảm lãi suất cho vay, giãn, hoãn nộp thuế, hổ trợ tài chính, trợ cấp xã hội cho những người lao động mất việc làm, người gặp khó khăn, giảm thu nhập… Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế thì có gói hổ trợ đã phát huy tác dụng, một số doanh nghiệp đã giảm bớt khó khăn, tìm hướng kinh doanh mới, hàng vạn người lao động đã nhận được trợ cập kịp thời để duy trì đời sống. Tuy vậy có gói hổ trợ chưa được thực hiện có kết quả, hoặc khi thực hiện đã nảy sinh những khiếm khuyết; do đó các bộ cần kiểm tra đánh giá quá trình thực hiện chính sách hổ trợ của Chính phủ để sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh các gói hổ trợ nhằm đạt được mục tiêu khôi phục và kích thích tăng trưởng kinh tế. Ví dụ việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp tỏ ra không có tác dụng bởi vì đại bộ phận doanh nghiệp thua lỗ, thậm chí phá sản, trong khi thuế VAT trực tiếp hổ trợ người tiêu dùng, có tác động trực tiếp đối với sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp thì chưa được miễn giảm. Kinh nghiệm của thế giới cũng chỉ ra rằng, cùng với kich thích đầu tư thì Chính phủ phải coi trọng kích thích tiêu dùng bằng các gói kích cầu thích hợp với thực trạng kinh doanh của từng ngành, lĩnh vực.
2) Khuyến khích đầu tư của tư nhân trong nước và nước ngoài, đẩy nhanh tiến độ đầu tư công đúng hướng để đạt được kết quả cao hơn, nhằm thực hiện được định hướng phát triển kinh tế- xã hội tại các Nghị quyết 50, 52 và 55 cuả Bộ Chính trị, trên cơ sở thống nhất về quan điểm khi đề ra chủ trương, chính sách, cũng như trong quá trình thực hiện.
Trong giai đoạn vừa qua đã xảy ra hiện tượng không nhất quán khi đề ra chủ trương như đầu tư 8 dự án thành phần đường bộ cao tốc Bắc- Nam, ban đầu là đầu tư theo phương thức Đối tác công- tư (PPP), tiếp đó là đầu tư công để giảm thiểu thời gian thi công, sau cùng chỉ có ba dự án đầu tư công, 5 dự án theo
Việc thay đổi chủ trương đã lãng phí thời gian, công sức và tiền của mà đến nay vẩn chưa khởi động được dự án.
Những Nghị quyết của Bộ Chính trị đã nhất quán theo kinh tế thị trường, bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm chuẩn mực để khai thác tối đa mọi nguồn lực trong nước và quốc tế nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế số.
Chính phủ đã và sẽ có Chương trình hành động để thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị; thiết tưởng vấn đề quan trọng nhất là chỉ đạo thực hiện của các bộ, ngành, địa phương để nhanh chóng biến thành kết quả thực tế.
3) Chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo, chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động tổng hợp, năng lực cạnh tranh, xây dựng công nghệp chế biến, chế tạo theo hướng cách mạng công nghiệp 4.0, tạo ra chuỗi giá trị của sản phẩm Việt Nam (made in Vietnam), hình thành mạng lưới công nghiệp hổ trợ; tái cấu trúc ngành nông nghiệp theo hướng kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp hũu cơ, hình thành các vùng chuyên canh sản phẩm có giá trị gia tăng cao và bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới, hợp tác xã kiểu mới và quá trình đô thị hóa.
Xây dựng kinh tế số và Chính phủ điện tử hướng tới mục tiêu có được một Chính phủ điện tử hiệu nămg và phát triển các doanh nghiệp CNTT, doanh nghiệp số Việt Nam; thông qua quá trình xây dựng Chính phủ điện tử, các doanh nghiệp số Việt Nam sẽ trưởng thành, đần có vị thế trong khu vực và trên thế giới.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, hiện nay Việt Nam có khoảng 50.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực ICT, trong đó có khoảng 30.000 doanh nghiệp làm công nghệ; không thua kém các nước phát triển trong ASEAN. Chính phủ chủ trương tăng lên 100.000 doanh nghiệp ITC vào năm 2025.
Các doanh nghiệp cần có ý thức chuyển đổi sang kinh tế số, coi trọng phương thức sản xuất và kinh doanh theo kinh tế số, đào tạo đối ngũ cán bộ quản trị doanh nghiệp và công nhân để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế số. Chính phủ và chính quyền địa phương cần có chính sách và các gói hổ trợ tài chính, các khóa đào tạo cán bộ doanh nghiệp để tạo tiền đề cho doanh nghiệp chuyển sang kinh tế số.
4) Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài nhờ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và của doanh nghiệp, điều chỉnh hợp lý chuỗi cung ứng sản phẩm theo hướng coi trọng hơn thị trường trong nước và tận dụng thị trường 650 người của Cộng đồng kinh tế ASEAN để chủ động ứng phó với biến đổi nhanh chóng của thị trường thế giới.
Nghiên cứu các đối tác về thương mại và đầu tư để để ra chiến lược kinh tế đối ngoại thích ứng với sự thay đổi đang diễn ra rất nhanh chóng trên thế giới, nhằm chủ động hơn trong lựa chọn đối tác để hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi, đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư theo hướng có địa chỉ, tìm đến đối tác đang quan tâm hợp tác với Việt Nam, tập trung hình thành một số thị trường trọng điểm về thương mại và đầu tư phù hợp với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của nước ta.
5) Đẩy nhanh cuộc cải cách đồng bộ thế chế chính trị và thể chế kinh tế hiện đang được Đảng và Nhà nước chỉ đạo thực hiện trong quá trình triển khai đại hội Đảng các cấp, tiến tới đại hội Đảng lần thứ XIII, tạo tiền đề xây dựng và thực hiện Chiến lược kinh tế- xã hội 2021- 2030 và Kế hoạch 5 năm 2021- 2025. Theo đó, Bộ máy nhà nước cần được tinh gọn và hiệu năng, đội ngũ công chức được hình thành theo hướng chuyên nghiệp, có đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao, có trình độ ngoại ngữ khá, hổ trợ người dân và doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế- xã hội.
Cải cách liên tục theo hướng tiếp cận với chuẩn mực quốc tế tốt nhất là giải pháp quan trọng nhất để thực hiện khát vọng thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.
(ii)(iii) (iv) Cần có chiến lược dài hạn về cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, để từ đó có kế hoạch, lộ trình thực hiện từng năm (thay vì ban hành nghị quyết từng năm như hiện nay);
(v) Đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh tế số, Chính phủ và giao dịch điện tử, thanh toán điện tử; vừa là để tăng năng suất lao động, vừa là theo kịp xu thế và giảm rủi ro lây lan dịch bệnh do tương tác trực tiếp;
(vi) Tăng cường đầu tư cho y tế dự phòng, nhất là về nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D), gồm cả nghiên cứu sản xuất thuốc, dược phẩm, dược liệu và vaccine phòng và thuốc đặc trị bệnh Covid-19 phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
(vii) Cần có đánh giá, báo cáo tổng hợp, rút kinh nghiệm về dịch bệnh; thống kê thiệt hại, chi phí, tác động…v.v. đối với kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở tham khảo đối với những trường hợp tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Đồng thời, những bài học hay, cách làm hay, hiệu quả trong quá trình phòng, chống dịch bệnh cần được lưu lại dưới dạng qui trình, sổ tay để thống nhất áp dụng sau này. Quan trọng hơn cả là làm sao để hạn chế rủi ro dịch bệnh. Theo đó, bảo vệ môi trường, động vật quý hiếm, giáo dục giữ gìn vệ sinh cá nhân, rèn luyện thân thể, tạo nếp sống lành mạnh cần đưa thành quốc sách, ưu tiên hàng đầu, thay vì chữa chạy.
Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE) cũng nhận định, ngoài những khó khăn chung phải gánh chịu như doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp FDI đang phải chịu những tác động mang tính chất đặc thù như thiếu hụt chuyên gia nước ngoài, khó khăn về nguyên liệu nhập khẩu, hay cơ sở sản xuất ở nước khác bị đình trệ ảnh hưởng đến sản xuất tại Việt Nam… nên khu vực doanh nghiệp này đang rất cần Chính phủ có những giải pháp riêng để phục hồi và kích thích phát triển.
Để có thể thu hút nhanh và nhiều hơn các doanh nghiệp FDI chuyển từ Trung Quốc và một số nước sang Việt Nam các khu kinh tế, khu công nghiệp chuẩn bị sẵn đất đai, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, thông tin về giá thuê đất, điều kiện giao thông, thông tin, cung ứng điện nước , nguồn nhân lực cho nhà đầu tư dịch chuyển nhà máy sang Việt Nam.
Các xí nghiệp chuyển sang Việt Nam là doanh nghiệp đang hoạt động do vậy không nên coi là “nhập khẩu trang thiết bị cũ”. Khi doanh nghiệp bắt đầu vận hành, cần kiểm tra để đảm bảo các yêu cầu về công nghệ, môi trường, an toàn lao động.
Đặc biệt, cần tiếp tục công khai, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục cấp phép để đảm bảo rút ngắn thời gian thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư, hỗ trợ nhà đầu tư để triển khai nhanh dự án bằng cơ chế một cửa khi làm thủ tục xây dựng, môi trường, phòng cháy nổ.
Trong bối cảnh mới, VAFIE cũng kiến nghị Chính phủ cần coi trọng hình thức đầu tư xí nghiệp chế xuất vì khi lựa chọn xây dựng nhà máy ở Việt Nam, khả năng cao các nhà đầu tư nước ngoài sẽ lựa chọn mô hình doanh nghiệp chế xuất, tại các địa phương có thuận lợi về giao thông, cơ sở vật chất và nguồn nhân công.
Do vậy, cần khẩn trương tháo gỡ vướng mắc liên quan đến chính sách, luật pháp về doanh nghiệp chế xuất để tạo thuận lợi tiếp nhận làn sóng đầu tư mới của các tập đoàn kinh tế lớn từ Trung Quốc.
Trong bối cảnh đó, báo cáo đã đưa ra một số kiến nghị chính sách cụ thể như Việt Nam cần chủ động cắt giảm các chi phí bắt buộc như phí và hoãn, giảm thuế đối với doanh nghiệp có giá trị kích thích và hỗ trợ kinh tế hiệu quả hơn so với cứu trợ hoặc tài trợ trực tiếp.
Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần có sự phân loại và tập trung hơn. Việc khoanh, ngưng hoặc miễn giảm các chi phí tài chính như lãi vay và tiền thuê đất nên được áp dụng đối với nhóm doanh nghiệp phải dừng hoạt động.
Mặt khác, các chính sách hoãn đóng bảo hiểm xã hội, giảm tiền thuê đất, giảm lãi vay và khoanh nợ, giãn thu thuế VAT nên được thực hiện với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tiêu cực nhưng còn hoạt động.
“Tuy nhiên, các tiêu chí hỗ trợ doanh nghiệp cần phải nêu rõ ràng về các mức độ hỗ trợ để tránh dàn trải. Và, đối với nhóm các doanh nghiệp ít hoặc không bị ảnh hưởng hay có hướng chuyển đổi hiệu quả thì nên khuyến khích tín dụng, hết sức tạo điều kiện về môi trường thể chế và chính sách ngành. Bởi, các doanh nghiệp này là nhóm gánh đỡ cho nền kinh tế trong thời điểm này”, ông Thế Anh nói.
Nguồn Nhà Đầu Tư