CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
(TBTCO) - Năm 2024 ngành gỗ tiếp tục gặp khó khăn. Dự báo, tăng trưởng của ngành sẽ chậm và không cao, khoảng 10% đến12% so với những quý cuối năm 2023.
Chiều ngày 21/12, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam tổ chức tọa đàm “Phát triển bền vững và những thách thức đặt ra cho ngành gỗ”.
Quang cảnh cuộc tọa đàm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2023 giảm hơn 15%.Tại buổi tọa đàm, ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam 2023 nhấn mạnh, đây là một năm thách thức của ngành gỗ Việt Nam. Nguyên nhân kim ngạch gỗ năm 2023 sụt giảm do nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ và châu Âu (EU) giảm mạnh dẫn đến các đơn hàng sụt giảm, nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất; một số doanh nghiệp thậm chí phải đóng cửa.
Ông Tô Xuân Phúc - Giám đốc điều hành Chương trình Chính sách, Thương mại và Tài chính Lâm nghiệp (Tổ chức Forest Trends) dẫn chứng, với thị trường EU, khoảng 77% tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU là các mặt hàng thuộc nhóm đồ gỗ (HS 9401 và HS 9403), gần 23% còn lại là các mặt hàng thuộc nhóm gỗ và bán nguyên liệu (HS 44). 11 tháng năm 2023, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào thị trường EU giảm 32% so với cùng kỳ.
Ngành gỗ đặt mục tiêu đến năm 2025, giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản của Việt Nam đạt 20 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt hơn 18,5 tỷ USD. Đến năm 2030, giá trị xuất khẩu đạt 25 tỷ USD. 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước được sử dụng từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Bên cạnh đó, ngày 29/6/2023, Quy định chống phá rừng của EU (EUDR) chính thức có hiệu lực; quy định mới của thị trường này sẽ tác động không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam sang thị trường này.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Chánh Phương - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP. Hồ Chí Minh cho hay, băn khoăn về quy định mới EUDR không chỉ đến từ các nhà xuất khẩu mà còn đến từ các nhóm khách hàng (người mua hàng của EU).
Những yêu cầu cụ thể của các quy định này đặt ra những thách thức lớn cho ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam. Trong đó, việc xây dựng chính sách, hạ tầng thông tin, để từ đó người sản xuất biết số gỗ đó được sản xuất ở khu đất nào, có đáp ứng được yêu cầu của EUDR hay không? Việc nguồn gốc gỗ chứng minh ở Việt Nam đã khó, nhưng việc chứng minh ở nước nhập khẩu còn khó hơn.
Năm 2024 vẫn tiềm ẩn một số khó khăn đối với ngành gỗ. Ảnh: TL Năm 2024 vẫn tiềm ẩn một số khó khăn cho ngànhNhận diện cơ hội và thách thức trong năm 2024, ông Đỗ Xuân Lập nhận định, năm 2024 vẫn tiềm ẩn một số khó khăn đối với ngành gỗ. "Năm 2024 ngành gỗ vẫn nằm trong thế có nhiều bất ổn, do đó, về tổng thể, dự báo, ngành gỗ có tăng trưởng chậm nhưng không nhiều, khoảng 10 - 12% so với những quý cuối năm 2023" - ông Lập nói.
Bên cạnh các khó khăn về đầu ra thị trường, ngành đang đối mặt với một số vấn đề thời sự ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững của ngành.
Thứ nhất, các thị trường xuất khẩu lớn ngày càng có các quy định chặt chẽ hơn về tính hợp pháp và bền vững của sản phẩm. Thứ hai, yêu cầu ở trong nước và tại các thị trường xuất khẩu về mức phát thải carbon thấp trong các hoạt động của toàn chuỗi cung ứng nhằm đạt mục tiêu net zero ngày càng tăng; sản phẩm có hàm lượng carbon cao sẽ trở nên đắt đỏ và sẽ mất tính cạnh tranh trên thị trường.
Thứ ba, mỗi năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 1,5 - 2 triệu m3 gỗ tròn và gỗ xẻ có nguồn gốc từ các quốc gia nhiệt đới, là gỗ rủi ro về pháp lý, chiếm 30 - 40% tổng lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu của cả ngành. Điều này không chỉ tác động tiêu cực tới hình hành của toàn ngành gỗ Việt mà còn làm mất đi cơ hội trong việc sử dụng gỗ nhập khẩu rủi ro thấp và đặc biệt là nguồn gỗ rừng trồng trong nước có nguồn gốc từ hàng triệu nông hộ.
Trước những khó khăn đó, các chuyên gia đều cho rằng, giải pháp trọng tâm nhất trong năm 2024 là tạo ra hình ảnh ngành gỗ Việt Nam phát triển bền vững, dựa trên yếu tố cơ bản là sử dụng gỗ có chứng chỉ và sản phẩm giảm phát thải.
Tại tọa đàm, các đại biểu đã cùng nhau trao đổi những vấn đề thời sự trực tiếp ảnh hướng đến tính bền vững của ngành. Đồng thời, cung cấp thông tin cho các bên liên quan, đặc biệt là các thành viên của các hiệp hội, về các quy định mới ở trong nước và các thị trường xuất khẩu về tính hợp pháp và bền vững của sản phẩm gỗ, bao gồm cả quy định về mức phát thải trong sản phẩm. Thảo luận về các thuận lợi và khó khăn của các bên liên quan trong chuỗi cung ứng, bao gồm các doanh nghiệp thành viên hiệp hội, các làng nghề trong việc đáp ứng các quy định này.