CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Chuyển đổi xanh của Việt Nam đối diện với thách thức đa chiều

Invest Global 09:11 22/08/2025

Theo phân tích của TS Nguyễn Thị Hồng Tâm - Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, quá trình chuyển đổi xanh ở Việt Nam đang đứng trước một tập hợp thách thức đa chiều từ thể chế, tài chính, công nghệ, nhân lực đến tư duy phát triển. Những thách thức này có mối liên hệ với nhau và cần được giải quyết một cách đồng bộ. Đây chính là lý do đòi hỏi một lộ trình chuyển đổi mô hình toàn diện và những yêu cầu cụ thể.

(TBTCO) - Theo phân tích của TS Nguyễn Thị Hồng Tâm - Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới, quá trình chuyển đổi xanh ở Việt Nam đang đứng trước một tập hợp thách thức đa chiều từ thể chế, tài chính, công nghệ, nhân lực đến tư duy phát triển. Những thách thức này có mối liên hệ với nhau và cần được giải quyết một cách đồng bộ. Đây chính là lý do đòi hỏi một lộ trình chuyển đổi mô hình toàn diện và những yêu cầu cụ thể.

Thể chế và nhận thức chưa đầy đủ

Mô hình tăng trưởng truyền thống dựa vào khai thác tài nguyên và năng lượng hóa thạch không còn phù hợp, đòi hỏi Việt Nam cần phải thay đổi mạnh mẽ. TS Nguyễn Thị Hồng Tâm chỉ ra rằng, nhiều cơ hội đang mở ra cho Việt Nam như tiềm năng năng lượng tái tạo, nguồn tài chính khí hậu quốc tế và lợi ích dài hạn về phát triển bền vững. Tuy vậy, quá trình này đối mặt với nhiều thách thức như hạn chế về thể chế, tài chính, công nghệ, nhân lực và tư duy phát triển.

Thứ nhất là thách thức về thể chế và nhận thức. Theo TS Nguyễn Thị Hồng Tâm, một trong những trở ngại lớn nhất nằm ở nhận thức và ưu tiên chính sách chưa đầy đủ của một số cấp, ngành và cộng đồng đối với tăng trưởng xanh.

Chuyển đổi xanh của Việt Nam đối diện với thách thức đa chiều Trở ngại lớn nhất nằm ở nhận thức và ưu tiên chính sách chưa đầy đủ của một số cấp, ngành và cộng đồng đối với tăng trưởng xanh. Ảnh: TL

Mặc dù Chính phủ đã ban hành chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia, song trên thực tế nhiều bộ, ngành, địa phương chưa quan tâm đúng mức đến tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh vẫn thường bị xem là vấn đề môi trường thuần túy, tách rời với mục tiêu kinh tế, dẫn đến thiếu cam kết mạnh mẽ trong triển khai.

Bên cạnh đó, phần lớn doanh nghiệp và người dân cũng chưa có nhận thức đầy đủ về sự cấp thiết của tăng trưởng xanh. Điều này dẫn đến tâm lý chần chừ, thậm chí phản đối thay đổi vì lo ngại ảnh hưởng tới lợi ích ngắn hạn. Chẳng hạn, một số địa phương vẫn ưu tiên thu hút dự án đầu tư nhanh thay vì sàng lọc dự án theo tiêu chí môi trường; nhiều doanh nghiệp chưa chủ động giảm phát thải vì e ngại chi phí. Đây thực sự là điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuỗi cung ứng xanh hiện nay.

Về phương diện thể chế, theo TS Nguyễn Thị Hồng Tâm, mặc dù đã có chiến lược quốc gia, song có sự trùng lặp và chồng chéo giữa các chiến lược, điều này đang dẫn đến nguy cơ phân tán nguồn lực và thiếu trọng tâm. Bà Tâm cho rằng, nếu không có đầu mối điều phối hiệu quả, các nỗ lực xanh hóa có thể bị cát cứ theo ngành hoặc địa phương.

Thứ hai là thách thức về nguồn lực tài chính. Chuyển đổi xanh hiện đang đòi hỏi đầu tư rất lớn và trong nhiều thập kỷ, trong khi khả năng huy động vốn của Việt Nam có hạn. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, để đi theo lộ trình phát triển phát thải ròng bằng 0 và thích ứng khí hậu, Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 6,8% GDP mỗi năm (tương đương 368 tỷ USD tích lũy đến 2040). Đây là con số đầu tư bổ sung, vượt trên các nhu cầu đầu tư cơ bản khác.

Đặc biệt, các ngành năng lượng, giao thông, công nghiệp cần những khoản vốn khổng lồ để chuyển đổi hạ tầng hiện hữu (ví dụ: xây dựng trang trại điện gió/điện mặt trời thay thế nhà máy than, phát triển hệ thống truyền tải thông minh, chuyển đổi sang xe điện, v.v.).

Trong khi đó, nguồn lực công cho tăng trưởng xanh còn rất hạn chế. Hơn nữa, sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế đang giảm dần do Việt Nam đã thành nước thu nhập trung bình, khó tiếp cận vốn ODA ưu đãi như trước. Về kênh tài chính tư nhân trong nước, thị trường vốn xanh của Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai. Mặc dù khung pháp lý cho phát hành trái phiếu xanh đã có (Nghị định 08/2022/NĐ-CP), kết quả thực tế còn rất khiêm tốn: trích từ dữ liệu của FiinRatings, năm 2024, thị trường trái phiếu xanh Việt Nam chỉ ghi nhận 4 đợt phát hành từ 4 tổ chức (BIDV, Vietcombank, IDI, Nước sạch Hòa Bình - Xuân Mai), với tổng giá trị đạt 6.870 tỷ đồng. Nhìn chung, bài toán huy động vốn cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam còn nan giải, nếu không tháo gỡ thì các kế hoạch dù tham vọng cũng khó thực hiện.

Năng lực phát triển và hấp thụ công nghệ còn thấp

Thứ ba là thách thức về công nghệ và hạ tầng. Theo phân tích của TS Nguyễn Thị Hồng Tâm, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn ở nấc thang thấp về năng lực công nghệ, do đó việc chuyển đổi sang công nghệ cao, công nghệ xanh gặp trở ngại lớn. Năng lực phát triển và hấp thụ công nghệ của Việt Nam còn hạn chế, nhiều ngành sản xuất vẫn dựa trên công nghệ lạc hậu, hiệu suất thấp. Ví dụ, hiệu quả năng lượng trong các ngành công nghiệp Việt Nam thuộc nhóm thấp ở ASEAN, mức tiêu hao năng lượng trên một đơn vị GDP cao hơn xấp xỉ 1,5 lần mức trung bình toàn cầu.

Việc ứng dụng các công nghệ giảm phát thải (như thiết bị tiết kiệm năng lượng, quy trình sản xuất sạch hơn) còn chậm. Công nghệ năng lượng tái tạo nội địa chưa phát triển - phần lớn thiết bị điện mặt trời, điện gió phải nhập khẩu, khiến chi phí cao và phụ thuộc nguồn cung nước ngoài.

Chuyển đổi xanh của Việt Nam đối diện với thách thức đa chiều

Bên cạnh đó, hạ tầng kỹ thuật hiện hữu của Việt Nam (lưới điện, giao thông, đô thị) được xây dựng theo tiêu chuẩn cũ, chưa sẵn sàng cho các giải pháp xanh mới. Hệ thống giao thông công cộng còn yếu, đô thị thiếu cơ sở hạ tầng xe điện (trạm sạc, bãi đỗ). Việc nâng cấp, chuyển đổi các hạ tầng này cần thời gian và chi phí khổng lồ.

Chuyển đổi năng lượng là một thách thức điển hình: Việt Nam đặt mục tiêu đạt đỉnh phát thải ngành điện trước 2030 và loại bỏ điện than vào thập niên 2040, nhưng để làm được, thách thức không chỉ là xây trang trại điện gió/mặt trời mới mà còn phải giải quyết bài toán kỹ thuật (dự phòng nguồn, lưu trữ điện, nâng cấp lưới) để duy trì an ninh năng lượng. Nếu chuyển đổi quá nhanh, nguy cơ thiếu điện có thể xảy ra, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất.

“Tư duy phát triển cũ vẫn tồn tại ở một số nơi, thể hiện qua việc ưu tiên dự án nhanh thay vì dự án sạch, hoặc chạy theo tăng trưởng ngắn hạn mà bỏ qua chi phí dài hạn. Nếu tiếp tục tăng trưởng theo lối mòn cũ, không những môi trường chịu thiệt hại mà về dài hạn kinh tế cũng mất cân bằng, dễ “đổ vỡ” như hình ảnh cái kiềng 3 chân khập khiễng (kinh tế - xã hội - môi trường không song hành)” - TS Nguyễn Thị Hồng Tâm nhấn mạnh.

“Tóm lại, vòng luẩn quẩn về công nghệ và hạ tầng - muốn xanh phải có công nghệ cao, mà muốn có công nghệ cao cần nguồn lực và thời gian - là rào cản không nhỏ cho Việt Nam” - TS Nguyễn Thị Hồng Tâm nhấn mạnh.

Thứ tư là thách thức về nhân lực và kỹ năng. Để vận hành nền kinh tế xanh đòi hỏi nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng mới, trong khi lực lượng lao động Việt Nam hiện chưa được chuẩn bị đầy đủ. Các ngành công nghiệp xanh, công nghệ môi trường, năng lượng sạch đều cần đội ngũ kỹ sư, chuyên gia lành nghề.

Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp của Việt Nam còn thấp (khoảng 26% năm 2022) và chất lượng đào tạo chưa theo kịp nhu cầu thị trường. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực xanh đang thiếu hụt. Chẳng hạn, ngành điện gió ngoài khơi hay năng lượng hydro mới manh nha, rất ít kỹ sư Việt Nam có kinh nghiệm; các lĩnh vực quản lý môi trường, tài chính xanh, thị trường carbon cũng thiếu chuyên gia am hiểu sâu.

Bên cạnh đó, khoảng cách giới trong các ngành STEM còn lớn – phụ nữ chỉ chiếm xấp xỉ 23% lực lượng lao động trong ngành năng lượng mặt trời, tái chế nhựa, lúa gạo (những ngành trung tâm cho mục tiêu khí hậu) (IFC, 2025). Điều này cho thấy nguồn lực lao động chưa được huy động và phát triển toàn diện. Nếu không sớm đầu tư cho giáo dục và đào tạo “nhân lực xanh”, Việt Nam có nguy cơ vừa thất nghiệp ở nhóm lao động kỹ năng thấp (do các ngành thâm dụng tài nguyên thu hẹp), vừa thiếu nhân lực cho các ngành xanh mới (phải thuê chuyên gia nước ngoài tốn kém).

Ngoài ra, việc đào tạo lại và nâng cao kỹ năng cho người lao động trong các ngành cũ (như than, nhiệt điện) chuyển sang ngành mới cũng đặt ra thách thức về chính sách lao động và an sinh - làm sao để quá trình chuyển đổi công bằng, không để ai bị bỏ lại phía sau./.

Ý kiến chuyên gia