CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Theo Tổng cục Hải quan, trong 8 tháng đầu năm 2025, tổng sản lượng xuất khẩu gạo Việt Nam đã đạt 6,37 triệu tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ, kim ngạch đạt 3,26 tỷ USD, giảm 15,1% do giá xuất khẩu bình quân giảm. Tình hình này đặt ra một thách thức lớn cho mục tiêu kim ngạch cả năm là 5,7 tỷ USD, khi 4 tháng cuối năm cần phải thu về tới 2,44 tỷ USD. Thách thức này càng lớn hơn khi Philippines, thị trường lớn nhất chiếm tới 45,9% thị phần, đã chính thức tạm dừng nhập khẩu gạo trong 60 ngày kể từ ngày 1/9.

Mặc dù đối mặt với khó khăn từ thị trường chủ lực, ngành gạo Việt Nam vẫn ghi nhận sự tăng trưởng ấn tượng tại các thị trường khác, cho thấy nỗ lực đa dạng hóa đang mang lại hiệu quả.
Trước đó, trong tháng 7/2025 gạo của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang thị trường Philippines đạt 332.434 tấn; sau đó là thị trường Ghana đạt 108.951 tấn, tương đương trên 59,24 triệu USD, tăng 39,64% về lượng, tăng 37,02% kim ngạch. Tiếp đến, Bờ Biển Ngà đạt 101.102 tấn, tương đương gần 42,8 triệu USD, tăng 63,85% về lượng, tăng 53,13% kim ngạch nhưng giảm 6,54% về giá.
Tính chung cả 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu gạo của cả nước đạt gần 5,51 triệu tấn, tương đương trên 2,83 tỷ USD, tăng 3,97% về lượng, nhưng giảm 15,36% về kim ngạch và giảm 18,59% về giá so với 7 tháng đầu năm 2024.
Bờ Biển Ngà là nước nhập khẩu gạo lớn thứ 2 của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm, đạt 648.755 tấn, tăng rất mạnh 148,1% về lượng. Lượng gạo xuất sang Bờ Biển Nga chiếm gần 12% tổng lượng gạo mà Việt Nam xuất khẩu.
Ghana đứng thứ 3 với 586.566 tấn, tăng 77,51% về lượng so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, xuất khẩu gạo sang Bangladesh tăng 31.280% về lượng, đạt 104.808 tấn trong 7 tháng. Xuất khẩu gạo sang Senegal cũng tăng mạnh 8.093% về lượng với 120.598 tấn.
Philippines ngừng nhập khẩu gạo chỉ trong ngắn hạnTại hội nghị Thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo và ổn định thị trường gạo" diễn ra chiều 10/9 do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì, ông Trần Xuân Hà, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, trong bối cảnh Chính phủ Philippines công bố lệnh tạm ngừng nhập khẩu gạo từ ngày 11/9 đến 30/10/2025, hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trường này chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp ngắn hạn.
Theo quy định, Bộ Nông nghiệp Philippines sẽ phải báo cáo Tổng thống để xem xét lại chính sách. Trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ gạo nội địa nước này vẫn rất lớn (ước khoảng 5 triệu tấn/năm), nhiều khả năng Philippines sẽ quay lại nhập khẩu vào cuối tháng 10 hoặc trong tháng 11-12 để bảo đảm nguồn cung dịp lễ, Tết. Thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam đã ghi nhận tín hiệu đàm phán trở lại từ khách hàng Philippines.
Bà Bùi Thanh Tâm, Chủ tịch Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood1) nhận định, trong bối cảnh hiện nay, có thể dự báo tình hình sắp tới sẽ không quá lo ngại đối với gạo Việt Nam. Thực tế trong 10 năm qua, Việt Nam từng trải qua giai đoạn phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Trung Quốc. Khi Trung Quốc giảm mạnh nhập khẩu, doanh nghiệp trong nước đã gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, qua thời gian, các doanh nghiệp đã chuyển hướng sang các thị trường khác, giảm sự lệ thuộc và mở rộng thị trường xuất khẩu. Điều quan trọng là chất lượng gạo Việt Nam đã được khẳng định, nên nếu không bán được ở thị trường này thì vẫn có thể bán ở thị trường khác.
"Philippines hiện vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam. Theo đánh giá, nhu cầu của họ sẽ tiếp tục ổn định, việc tạm ngừng nhập khẩu chỉ mang tính ngắn hạn. Cuối năm, khi bước vào mùa lễ hội và Giáng sinh, khả năng Philippines quay lại nhập khẩu gạo Việt Nam là trong tầm tay. Do đó, doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng", bà Tâm nói.
Ông Phùng Văn Thành, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Philippines cho biết thêm, về nhu cầu gạo của Philippines, mức nhập khẩu của nước này vẫn duy trì ổn định. Sáu tháng đầu năm, Philippines chỉ sản xuất được 9,08 triệu tấn lúa, trong khi mục tiêu cả năm 2025 ở mức 20,46 triệu tấn. Như vậy, để bảo đảm nhu cầu trong nước, Philippines vẫn phải nhập khẩu từ 4,9-5,4 triệu tấn gạo trong năm nay. Đây là con số khó thay đổi, do đó doanh nghiệp Việt Nam không cần quá lo ngại.