CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Tổng số doanh nghiệp (DN) ở Việt Nam áp dụng AI hiện vào khoảng 170.000 DN, chiếm khoảng 18% tổng số DN cả nước. Như nhận định của bà Trần Vũ Hà Minh, cố vấn trưởng về AI có trách nhiệm của FPT Software, Việt Nam đang trong giai đoạn khởi đầu xây dựng và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo, và chính vì vậy chúng ta có cơ hội rất lớn để thiết kế hệ thống AI theo các tiêu chuẩn cao về quản trị và tuân thủ ngay từ đầu.
Yêu cầu rất cấp thiết
Đó là chưa kể thị trường chatbot (một chương trình Trí tuệ nhân tạo được thiết kế nhằm mô phỏng lại các cuộc trò chuyện với người dùng thông qua nền tảng internet) tại Việt Nam cũng cho thấy tiềm năng tăng trưởng mạnh.
Trí tuệ nhân tạo ngày càng được nhiều DN Việt ứng dụng rộng rãi trong sản xuất thông minh và họ đang cần có khung pháp lý rõ ràng.
Theo bà Trần Vũ Hà Minh, dự báo thị trường chatbot Việt Nam sẽ tăng lên 207,1 triệu USD vào năm 2033 với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 18,50% trong giai đoạn 2025 - 2033. Còn hồi năm 2024 giá trị thị trường chatbot đạt khoảng 31,2 triệu USD.
“Vì vậy, một trong những kiến nghị cấp thiết là cần có hướng dẫn chuyển đổi số và chuyển đổi số theo đúng tiêu chuẩn, có trách nhiệm từ giai đoạn đầu triển khai”, bà Minh chia sẻ.
Cụ thể, khi DN mới bước vào AI, họ rất thường bắt đầu bằng chatbot hoặc các công cụ tương tác thông minh. Do đó, Nhà nước nên sớm ban hành hướng dẫn cách triển khai chatbot hoặc các công cụ AI cơ bản sao cho tuân thủ các yêu cầu như minh bạch, bảo vệ dữ liệu, trách nhiệm giải trình.
Riêng với các dự án rủi ro cao hoặc trọng điểm, theo bà Minh, cần có các chủ trương, quy định hoặc tiêu chuẩn chi tiết để DN yên tâm thực hiện mà không lo vướng rào cản pháp lý hay kỹ thuật.
Có thể nói khi công nghệ AI đang phát triển với tốc độ chóng mặt, các câu hỏi về pháp lý liên quan đến AI ngày càng trở nên cấp thiết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng AI. Chính vì vậy, trong trung tuần tháng 10/2025, Bộ Tư pháp đã công bố hồ sơ dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo đang tổ chức thẩm định với đề xuất có hiệu lực từ năm 2026.
Góp ý vào Dự thảo Trí tuệ nhân tạo, ông Trần Văn Trí, Giám đốc LuatVietnam.vn, nhận định đây là khung pháp lý cần thiết cho hoạt động ứng dụng AI tại Việt Nam. Nhất là thể hiện toàn diện các quy định về nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng hệ thống Trí tuệ nhân tạo.
Với kinh nghiệm triển khai hệ thống AI Luật– trợ lý pháp lý ứng dụng Trí tuệ nhân tạo giúp tra cứu, hỏi đáp và phân tích quy định pháp luật, ông Trí cho biết trong quá trình triển khai thì phía DN gặp một số băn khoăn, như: Quản lý nguồn dữ liệu huấn luyện và cơ chế xác định trách nhiệm đối với đầu ra AI; Cách thức phân loại rủi ro của các hệ thống AI trong lĩnh vực phổ biến pháp luật; Quy định gắn nhãn và công bố thông tin hệ thống AI.
Vị giám đốc LuatVietnam.vn đề xuất là nên quy định rõ hơn về quyền sở hữu trí tuệ. Nhất là ranh giới về quyền sở hữu trí tuệ giữa nhà cung cấp, nhà phát triển, nhà triển khai. Hơn nữa, cần có quy định cụ thể, rõ ràng hơn về phạm vi, mức độ áp dụng AI phải gắn nhãn. Đặc biệt là nên xem xét linh hoạt hơn để không làm chậm tiến độ ra mắt sản phẩm AI, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh.
Không những thế, theo ông Trí, cần quy định rõ về việc dẫn nguồn tri thức trong sản phẩm do AI tạo ra. AI không tự sinh ra tri thức, mà học từ nguồn dữ liệu có sẵn. Cần quy định dẫn nguồn để minh bạch xuất xứ, giúp dễ kiểm tra và đối chiếu.
Phải theo kịp những thách thức đặc thù
Hiện nay Việt Nam xác định AI là động lực chủ chốt của tăng trưởng kinh tế, với Chiến lược Quốc gia về AI đặt mục tiêu đưa đất nước vào nhóm bốn quốc gia hàng đầu ASEAN về nghiên cứu và ứng dụng AI vào năm 2030.
Tuy nhiên, việc áp dụng nhanh chóng cũng kéo theo nhiều thách thức, nhất là khoảng trống pháp lý. Để giúp các DN Việt dễ dàng “mở khóa” AI đòi hỏi cần các giải pháp chủ động nhằm đảm bảo phát triển AI vừa có trách nhiệm vừa bền vững.
Ts. James Kang, chuyên gia khoa học kỹ thuật và công nghệ thuộc Đại học RMIT, nhấn mạnh việc quản lý AI dựa trên khung pháp lý rõ ràng sẽ là yếu tố chủ chốt giúp Việt Nam điều hướng trong bối cảnh AI đang không ngừng phát triển.
Vị chuyên gia này đặt vấn đề: Khung pháp lý của Việt Nam, được thiết kế cho con người, đang gặp khó khăn khi xử lý tính phức tạp do AI mang lại. Nếu AI tạo ra sản phẩm trí tuệ, ai sẽ là người sở hữu - bản thân AI đó, người phát triển nên AI hay DN?
Do đó, theo Ts, James Kang, hệ thống pháp lý của Việt Nam phải thích ứng để theo kịp với tốc độ phát triển của công nghệ này. Việc trao tư cách pháp nhân cho AI, tương tự như cho DN, đặt ra nhiều câu hỏi về trách nhiệm pháp lý và quyền sở hữu. Liệu AI tự vận hành có phải chịu trách nhiệm giải trình nếu gây thiệt hại không?
“Nếu AI vận hành mà không có chủ sở hữu rõ ràng thì ai sẽ chịu trách nhiệm? Những vấn đề này nêu bật tính cấp thiết phải cập nhật các quy định về AI nhằm bảo đảm trách nhiệm giải trình và giám sát đạo đức”, Ts. James Kang nêu rõ.
Giới chuyên gia cũng chỉ rõ các quy định pháp luật Việt Nam cần phát triển để theo kịp những thách thức đặc thù mà AI mang lại, chẳng hạn như trách nhiệm pháp lý đối với các quyết định tự động, quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm do AI tạo ra, hay trách nhiệm giải trình trong các trường hợp AI gây ra hậu quả phi đạo đức.
Còn theo Ts. Sam Goundar, chuyên gia ngành công nghệ thông tin, khung pháp lý rõ ràng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì phát triển AI có trách nhiệm. Những quốc gia có hệ thống quản trị AI chặt chẽ, lực lượng lao động sẵn sàng và cơ chế giám sát hiệu quả sẽ định hình tương lai AI toàn cầu.
Ts. Goundar cho rằng để trở thành quốc gia dẫn đầu trong khu vực, Việt Nam cần có hành động quyết đoán. Đó là tăng cường khung pháp lý AI để bảo vệ người dùng và giải quyết những rủi ro từ việc tích hợp AI quá nhanh. Thực hiện các quy định AI chặt chẽ nhằm thực thi luật bảo mật dữ liệu, hướng dẫn đạo đức, cũng như phòng chống thông tin sai lệch và thiên kiến.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia này khuyến nghị Việt Nam nên tiếp cận các mô hình quản trị AI quốc tế để áp dụng thực tiễn tốt nhất, đồng thời điều chỉnh các chính sách phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội của Việt Nam. Đặc biệt là nâng cao nhận thức cộng đồng, giúp cá nhân và DN hiểu rõ tác động của AI đối với quyền riêng tư, bảo mật dữ liệu và các quyết định kinh doanh.
Xét cho cùng, bằng cách chủ động lấp khoảng trống pháp lý, Việt Nam sẽ có được chiến lược phát triển Trí tuệ nhân tạo cân bằng, vừa giúp DN yên tâm “mở khóa” AI để thúc đẩy đổi mới, tạo lợi thế cạnh tranh mà vừa không phải lo về những rào cản, rủi ro.
Thế Vinh