CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, nông nghiệp Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp thiết phải chuyển đổi mạnh mẽ để thích ứng và phát triển bền vững.
Không chỉ là xu thế tất yếu, chuyển đổi số trong nông nghiệp đang trở thành chìa khóa mở ra cơ hội nâng cao năng suất, chất lượng, giảm chi phí và tăng sức cạnh tranh cho nông sản Việt trên thị trường quốc tế.
Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” diễn ra trong thời điểm khu vực kinh tế hợp tác đang nỗ lực thích ứng với những biến động nhanh của thị trường và yêu cầu đổi mới phương thức sản xuất.
Thực tế cho thấy, dù đã có những bước tiến nhất định trong ứng dụng công nghệ số, nhưng phần lớn các HTX nông nghiệp vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, đối mặt với không ít rào cản về hạ tầng, nguồn lực và tư duy quản trị.
Chính vì vậy, việc nhận diện rõ thách thức và tìm hướng tháo gỡ cụ thể là nội dung được quan tâm hàng đầu tại Diễn đàn.

Đúng 8h ngày 29/10, Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp: Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai” chính thức khai mạc.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam nhấn mạnh, chuyển đổi số đang mở ra hướng đi mới bền vững và thịnh vượng cho ngành nông nghiệp Việt Nam - hiện đóng góp khoảng 12-14% vào GDP và có hoạt động xuất khẩu nông lâm thủy sản đang vượt qua nhiều rào cản để tiến tới cán mốc ít nhất là 65 tỷ USD trong năm 2025.
Cần khẳng định chuyển đổi số đã, đang và sẽ giúp cho cho ngành nông nghiệp Việt Nam tối ưu hóa năng suất, giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Không những vậy còn giúp giải quyết các bài toán khó như biến đổi khí hậu, đáp ứng các chuẩn mực phát triển bền vững, chuyển đổi xanh, cạnh tranh quốc tế và áp lực gia tăng năng suất, cải thiện đời sống của người nông dân, gia tăng doanh thu cho hợp tác xã (HTX) nông nghiệp và doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.
Riêng với các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, chuyển đổi số chính là đòn bẩy tăng trưởng khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là con đường ngắn nhất để các HTX nông nghiệp nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa quy trình sản xuất và kinh doanh.
Chuyển đổi số còn giúp các HTX mở rộng thị trường, tăng cường khả năng cạnh tranh, và tạo ra một môi trường minh bạch, tin cậy cho cả người sản xuất và người tiêu dùng…

Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân phát biểu khai mạc Diễn đàn.
Hiện nay, cả nước có hơn 22.500 HTX nông nghiệp, thì việc nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ số không chỉ là mệnh lệnh mà còn là điều tất yếu nếu không muốn bị loại ở phía sau và rời khỏi cuộc chơi trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt như hiện nay.
Tuy vậy, phải thấy rõ việc nắm bắt tốt cơ hội và thích ứng tương lai trước xu hướng chuyển đổi số đòi hỏi ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và khu vực kinh tế HTX nông nghiệp nói riêng cần vượt qua các thách thức lớn và và còn nhiều việc phải làm.
Cũng nên nhìn nhận tốc độ chuyển đổi số trong nông nghiệp còn chậm so với các ngành kinh tế khác. Phần lớn nông dân, HTX nông nghiệp vẫn sử dụng phương pháp canh tác, sản xuất truyền thống. Hạ tầng công nghệ thông tin ở khu vực nông thôn còn yếu kém. Thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về công nghệ số trong nông nghiệp.
Xét về thách thức của các HTX nông nghiệp trong chuyển đổi số đang nằm ở 5 nhóm chính: Tài chính, hạ tầng công nghệ, thiếu hụt nhân lực, chiến lược phát triển và tiếp cận chính sách.
Về tài chính, thách thức của các HTX là thiếu vốn đầu tư chuyển đổi số khi mà chi phí đầu tư cho công nghệ số trong nông nghiệp khá lớn, lại khó tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi.
Về hạ tầng công nghệ thông tin thì còn hạn chế khi mà đường truyền internet không ổn định, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Về nguồn nhân lực còn hạn chế do thiếu đội ngũ chuyên gia về công nghệ số trong nông nghiệp. Nông dân chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng sử dụng công nghệ số.
Đó là chưa kể chính sách và cơ chế chưa đồng bộ. Cụ thể là chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh để thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp, chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bộ, ngành và địa phương.
Một cuộc khảo sát gần đây của Liên minh HTX Việt Nam cho thấy mức độ chuyển đổi số của HTX cả nước mới chỉ đạt 32%. Trong số gần 35.000 HTX thì chỉ có 13,6% HTX đã hoàn tất chuyển đổi số, 50% đang triển khai và 36,4% chưa thực hiện.
Bên cạnh đó, tâm lý e ngại thay đổi cũng là một trở ngại cho việc chuyển đổi số của các HTX nông nghiệp. Nhiều nông dân, thành viên HTX còn quen với phương pháp canh tác truyền thống và e ngại áp dụng công nghệ mới, cũng như hiếu niềm tin vào hiệu quả của công nghệ số.
Câu hỏi được đặt ra: Đâu là trở ngại tâm lý lớn nhất khiến các HTX nông nghiệp và người nông dân còn ngần ngại trên hành trình chuyển đổi số?
Một rào cản vô hình là vẫn còn nhiều HTX và các nông hộ hiểu chưa đúng bản chất của chuyển đổi số. Và một hiểu lầm phổ biến là đồng nhất chuyển đổi số với việc chạy theo những công nghệ “hào nhoáng” như Trí tuệ nhân tạo (AI), Công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (Big Data) hay Internet vạn vật kết nối (IoT).
Thực tế, chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ là câu chuyện ứng dụng công nghệ số vào toàn bộ chuỗi giá trị nông nghiệp từ sản xuất đến phân phối như một trong những ưu tiên xuyên suốt, mà là còn hành trình chiến lược để HTX và người nông dân nâng cao năng lực số trong các hoạt động cốt lõi như: Sản xuất, quản lý, nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc và minh bạch thông tin, giám sát chất lượng nông sản, giảm phát thải và ô nhiễm môi trường, cũng như trong hoạt động marketing, kết nối cung cầu, quản trị nhân sự…
Ngoài ra, vấn đề thách thức còn nằm ở sự xung đột giữa ưu tiên ngắn hạn và lợi ích dài hạn. Các nông hộ, HTX và các DN đầu tư vào nông nghiệp thường tập trung cho sự sống còn tức thời, trong khi chuyển đổi số lại thuộc nhóm công việc quan trọng nhưng không cấp bách nên dễ bị gác lại. Tư duy này có thể trở thành lực cản trên hành trình số hóa.
Một vấn đề cũng được đặt ra là làm sao để người nông dân, HTX nông nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp thuộc dạng nhỏ và vừa vượt qua “nỗi sợ hãi và mù mờ” về ứng dụng công nghệ số? Và liệu có khi nào họ nghi ngờ khả năng của chính mình?
Thực ra, “nỗi sợ vô hình” này bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết. Một tâm lý chung của nhiều người là thường sợ những gì chưa rõ. Với các chủ thể tham gia trong ngành nông nghiệp Việt cũng vậy. Và giải pháp không phải là tô vẽ công nghệ như phép màu, mà là làm rõ có thể và không thể làm gì.
Khi nông dân, HTX và doanh nghiệp hiểu giới hạn của công nghệ số và học cách hợp tác để tạo ra giá trị, nỗi lo sẽ giảm đi. Thực ra những nghi ngờ là khó tránh khỏi, nhưng đó không phải điểm yếu, mà là tín hiệu cho thấy họ thận trọng và cần được hỗ trợ, khuyến khích chuyển đổi số để nắm bắt cơ hội, thích ứng với tương lai theo chiều hướng tiến bộ hơn.
Trước những thách thức như vậy để thấy muốn cho ngành nông nghiệp Việt tiếp tục chuyển mình vững chắc là phải định hình lại các chiến lược chuyển đổi số một cách thông minh và linh hoạt, có khả năng giải quyết các vấn đề thực tế phức tạp.
"Do đó, thông qua Diễn đàn “Chuyển đổi số trong nông nghiệp - Nắm bắt cơ hội, thích ứng tương lai”, điều chúng tôi kỳ vọng sẽ nhận được những ý kiến, giải pháp quý báu từ kinh nghiệm thực tiễn của các nhà khoa học, nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và HTX nhằm thích ứng và nắm bắt hiệu quả cơ hội mở ra trong tương lai từ chuyển đổi số ở ngành nông nghiệp Việt Nam", Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.

Thường trực Liên minh HTX Việt Nam nhận lẵng hoa chúc mừng từ Ban tổ chức Diễn đàn nhân dịp 32 năm ngày thành lập Liên minh HTX Việt Nam (29/10/1993-29/10/2025).
Về phía Liên minh HTX Việt Nam đang đặt ra 4 giải pháp chính cho vấn đề chuyển đổi số trong các HTX nông nghiệp. Điều này cũng nhằm cụ thể hóa hành động của khu vực kinh tế hợp tác dựa trên Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thứ nhất, trong giai đoạn 2026 - 2030 cần tăng cường truyền thông, đào tạo các HTX nông nghiệp nâng cao nhận thức về chuyển đổi số. Cụ thể là tổ chức các chương trình tập huấn, hội thảo về chuyển đổi số trong nông nghiệp, chia sẻ các mô hình chuyển đổi số thành công. Đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ số cho nông dân, thu hút nhân tài công nghệ thông tin về làm việc cho các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ hai là các HTX nông nghiệp cần được hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn dài hạn, đơn giản hóa thủ tục vay nhằm nâng cấp thiết bị công nghệ thông tin, số hóa dữ liệu, phần mềm quản lý phù hợp.
Thứ ba là Liên minh HTX Việt Nam phải đóng vai trò trung tâm điều phối hệ sinh thái HTX số. Nhất là thông qua việc xây dựng, phát triển và quản lý các nền tảng số, thúc đẩy số hóa quy trình hoạt động của các HTX nông nghiệp, kết nối, đào tạo và hỗ trợ HTX ứng dụng công nghệ, từ đó tạo ra một môi trường HTX số đồng bộ, hiệu quả và bền vững.
Thứ tư là Chính phủ cần ban hành Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số khu vực kinh tế tập thể, HTX giai đoạn 2026 - 2030 với nguồn ngân sách ổn định. Đặc biệt là cần huy động nguồn lực xã hội, trong đó ngân sách nhà nước ưu tiên hỗ trợ các chương trình, đề án, nhiệm vụ về nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp bền vững thích ứng biến đổi khí hậu để chuyển đổi số phát huy vai trò trong sản xuất, nhất là trong hoạt động HTX nông nghiệp.
Bên cạnh đó là cần đẩy mạnh hỗ trợ số hóa và chuyển đổi xanh cho HTX nông nghiệp thông qua các mô hình liên kết đầu tư tập trung, tránh tình trạng đầu tư nhỏ lẻ, manh mún và dàn trải. Bởi vì hiện nay, nhiều HTX nông nghiệp vẫn đang “bơi giữa dòng chảy lớn” mà chưa thể vươn ra “biển lớn” do thiếu hụt nguồn lực cần thiết cho quá trình chuyển đổi số.
Đáng lưu ý, phần lớn các chương trình đầu tư hiện nay chỉ tập trung vào doanh nghiệp tư nhân và các lĩnh vực khác, trong khi các HTX nông nghiệp gần như bị đứng ngoài cuộc, chưa được thụ hưởng đầy đủ các chính sách hỗ trợ tương xứng.
Cần tăng cường liên kết giữa HTX nông nghiệp với doanh nghiệp, tổ chức khoa học - công nghệ nhằm thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng chuyển đổi số vào thực tiễn sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị toàn cầu.
Ngoài ra, để gia tăng chuyển đổi số trong ngành nông nghiệp Việt Nam đòi hỏi cần đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin. Cụ thể là nâng cấp đường truyền internet ở khu vực nông thôn, xây dựng các trung tâm dữ liệu nông nghiệp.
Không những vậy, cần tăng cường hỗ trợ tài chính, như cung cấp các gói tín dụng ưu đãi cho nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp, khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân vào nông nghiệp công nghệ cao. Bên cạnh đó cần khuyến khích và hỗ trợ phát triển các mô hình nông nghiệp thông minh, các mô hình ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, xây dựng các chuỗi giá trị nông sản thông minh, từ sản xuất đến tiêu thụ.
Đối với ngành nông nghiệp Việt Nam, chuyển đổi số là hành trình của tư duy và niềm tin. Đây không chỉ là xu hướng đòi hỏi phải thích ứng tốt, đón đầu, không chỉ là cơ hội xoay quanh công nghệ nào được áp dụng, mà quan trọng hơn là thay đổi cách nghĩ cách làm.
Khi người nông dân, HTX và doanh nghiệp nông nghiệp dám vượt qua tâm lý ngắn hạn, chấp nhận đầu tư cho những việc hệ trọng với tầm nhìn lâu dài, nuôi dưỡng tinh thần công nghệ số và chủ động học hỏi, họ sẽ không bị bỏ lại trong kỷ nguyên chuyển đổi số, kỷ nguyên của những ứng dụng đa dạng như Trí tuệ nhân tạo, Blockchain, IoT, Big Data…
Hiện thực hóa mục tiêu “Mỗi hợp tác xã – một nền tảng số; mỗi nông dân – một công dân số”

TS. Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục chuyển đổi số quốc gia (Bộ KH&CN).
“Trước khi đến đây, tôi đã kiểm tra lại các thông tin trong phạm vi quản lý của mình. Chúng tôi được biết Bộ NN&MT hiện đang xây dựng Chiến lược chuyển đổi số của toàn ngành đến năm 2030, tầm nhìn 2035.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, văn bản vẫn chưa được ban hành chính thức do mới được góp ý cách đây khoảng 10 ngày. Nếu được ban hành trong hôm nay thì đây sẽ là một trong những dấu mốc rất đáng mừng, thể hiện tinh thần chủ động và tầm nhìn chiến lược của ngành nông nghiệp”, TS. Trần Duy Ninh, Cục trưởng Cục chuyển đổi số quốc gia (Bộ KH&CN) chia sẻ.
Theo ông Ninh, Chiến lược chuyển đổi số của Bộ Bộ NN&MT được xây dựng rất bài bản, toàn diện, bao quát tất cả các lĩnh vực của ngành.
Nông nghiệp là một trong những lĩnh vực khó nhưng xứng đáng nhất để thực hiện chuyển đổi số. Như Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân đã nói, điều quan trọng là phải làm sao để thấy được hiệu quả, trả lời câu hỏi làm bằng cách nào và giải quyết khó khăn ra sao.
Hiện nay, nông nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, hạ tầng còn yếu, điều kiện kết nối hạn chế. Tuy nhiên, nếu các HTX vùng sâu, vùng xa có thể dùng các nền tảng số để bán sản phẩm ra thế giới, thì đó mới thực sự là thành công của chuyển đổi số quốc gia.
Bộ KH&CN – với vai trò là cơ quan thường trực của Chính phủ về thúc đẩy chuyển đổi số vừa tổng kết 5 năm đầu thực hiện Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, và đang chuẩn bị bước sang giai đoạn 5 năm tiếp theo (2025–2030).
Trong 5 năm đầu, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả nền tảng, tạo tiền đề cho giai đoạn tới. Một số nội dung quan trọng có thể kể đến như thể chế, hạ tầng, dữ liệu và nguồn lực.
Về thể chế, Nghị quyết 36-NQ/TW về chuyển đổi số là nghị quyết có tính đột phá, trong đó xác định nông nghiệp là một trong những lĩnh vực ưu tiên. Tiếp theo, Luật Chuyển đổi số hiện đang được Bộ KH&CN hoàn thiện, dự kiến báo cáo Chính phủ trong tuần này, và trình ký thông qua vào tháng 12/2025.
Luật Chuyển đổi số là đạo luật khung, giúp thể chế hóa các hoạt động chuyển đổi số, trong đó có 3 nội dung chính đáng chú ý.
Kinh phí chuyển đổi số: Lần đầu tiên, Luật quy định rõ ràng rằng ngân sách dành cho chuyển đổi số là 1% tổng chi. Đây là bước tiến quan trọng vì trước đây, con số này mới chỉ là định hướng, chưa được pháp lý hóa.
Khung kiến trúc tổng thể quốc gia: Bộ KH&CN vừa ban hành Khung kiến trúc tổng thể quốc gia (ngày 8/10). Đây là nền tảng lõi để triển khai các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu và nền tảng số, đảm bảo thống nhất từ trung ương tới địa phương.
Khung này gồm hai thành phần chính: phần dùng chung và phần dùng riêng. Phần dùng chung sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các HTX, nông dân và các cơ sở sản xuất.
Các nền tảng dùng chung quốc gia hiện có 84 nền tảng đã được tổng hợp, trong đó nền tảng dành riêng cho nông nghiệp và HTX đang trong quá trình đề xuất bổ sung.
Khi hoàn thành, nền tảng này sẽ giúp giải quyết tình trạng phân mảnh hệ thống – nơi mỗi đơn vị tự phát triển phần mềm riêng, gây tốn kém và thiếu kết nối.
Về hạ tầng giữ liệu, hiện nay, lĩnh vực dữ liệu do Bộ Công an chủ trì quản lý. Bộ đang triển khai xây dựng Trung tâm dữ liệu quốc gia, đồng thời lấy ý kiến các bộ ngành, địa phương để xác định nhu cầu sử dụng.
Theo ông Ninh, với ngành nông nghiệp, chúng ta không cần lo về hạ tầng lưu trữ, vì các dữ liệu sau khi được số hóa sẽ được đưa lên đám mây, tích hợp vào hệ thống trung tâm quốc gia. Việc của các đơn vị cơ sở là chuẩn hóa, số hóa và cập nhật dữ liệu đúng định dạng.
Về hạ tầng kết nối, hiện nay chỉ còn hơn 200 xã trong cả nước chưa có sóng di động ổn định. Theo cam kết của Cục Viễn thông, đến đầu tháng 11 tới, 100% các xã sẽ có kết nối mạng di động, đảm bảo điều kiện cơ bản cho chuyển đổi số nông nghiệp.
Đặc biệt, về nguồn lực và nhân lực. Một trong những vấn đề lớn nhất của khu vực HTX là thiếu nhân lực công nghệ thông tin. Vì vậy, giải pháp khả thi nhất hiện nay là doanh nghiệp đồng hành.
Trong nhiều mô hình thí điểm, doanh nghiệp đã đóng vai trò quan trọng – không chỉ tài trợ thiết bị, mà còn đưa chuyên gia, kỹ sư trực tiếp xuống địa phương hướng dẫn, đào tạo.
Tuy nhiên, về lâu dài cần hạt nhân công nghệ tại HTX. Từ năm 2026, Chính phủ định hướng xây dựng xã hội công dân số, tức là mọi người dân đều phải có kỹ năng sử dụng dịch vụ số.
Bộ KH&CN và Bộ GD&ĐT đang phối hợp triển khai nền tảng đào tạo trực tuyến về kỹ năng số cơ bản, dự kiến đưa vào vận hành trong vòng một tháng tới.
HTX, Liên minh HTX Việt Nam và các Liên minh HTX địa phương có thể phối hợp tiếp cận nền tảng này để đào tạo lực lượng công dân số ở cơ sở.
Dựa trên điều kiện thực tế trên, Cục trưởng Cục chuyển đổi số quốc gia có một số đề xuất.
Thứ nhất, xây dựng kiến trúc số riêng cho khu vực HTX: Trong khung kiến trúc số của Bộ NN&MT, cần có tiểu hệ thống dành riêng cho Liên minh HTX và các HTX. Đây sẽ là công cụ kết nối dữ liệu, quản trị và giao dịch xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.
Thứ hai là chuẩn hóa dữ liệu nông nghiệp quốc gia: Đề nghị bổ sung dữ liệu HTX vào nhóm 116 cơ sở dữ liệu quốc gia trọng điểm do Bộ Công an quản lý.
Thứ ba, đẩy nhanh nền tảng “Hợp tác xã số”: Đây sẽ là nền tảng dùng chung, giúp các HTX không phải tự thuê hoặc phát triển phần mềm quản lý riêng lẻ.
Thứ tư, mở rộng các sàn giao dịch công nghệ: Giúp HTX có thể tiếp cận, thuê hoặc mua các giải pháp số phù hợp.
Ngoài ra, trong giai đoạn tới, 3 trụ cột của chuyển đổi số nông nghiệp gồm: Hạ tầng và dữ liệu; Nền tảng số dùng chung; Nguồn nhân lực và doanh nghiệp đồng hành.
Những nội dung này đều đã và đang được luật hóa, thể chế hóa trong Luật Chuyển đổi số và các nghị quyết liên quan.
Bộ KH&CN khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành cùng Bộ NN&MT và Liên minh HTX Việt Nam trong toàn bộ tiến trình chuyển đổi số nông nghiệp, nhằm hiện thực hóa mục tiêu “Mỗi hợp tác xã – một nền tảng số; mỗi nông dân – một công dân số”.
Chuyển đổi xanh - xu thế tất yếu trong phát triển nông nghiệp hiện đại
“Chuyển đổi xanh và chuyển đổi số đang là hai xu thế tất yếu, gắn liền với yêu cầu tăng trưởng nhanh, bền vững của nền kinh tế. Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng cao, giá trị sản xuất đạt trên 400 tỷ USD, việc định hướng phát triển nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao theo hướng “xanh” và “số” không chỉ là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc”, TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh.

TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường)
Theo Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, 2 trụ cột quan trọng của nền nông nghiệp hiện đại chính là liên kết chuỗi giá trị và xây dựng hệ sinh thái số. Đây là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh, minh bạch hóa quy trình sản xuất – tiêu thụ, và tạo dựng niềm tin trên thị trường trong nước và quốc tế.
Về thực trạng chuyển đổi số và liên kết chuỗi giá trị trong nông nghiệp, Việt Nam là quốc gia có nền nông nghiệp phát triển mạnh, được quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số trong nông nghiệp, đặc biệt trong khu vực kinh tế tập thể và HTX, vẫn còn chậm so với nhiều quốc gia trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan hay các nước EU.
Tại Trung Quốc, nền tảng số quốc gia về nông nghiệp đã được triển khai đến từng HTX, từng trang trại, gắn với hệ thống quản lý cấp địa phương. Ở Thái Lan, hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử được áp dụng bắt buộc đối với nông sản xuất khẩu.
Trong khi đó, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống truy xuất số vận hành đồng bộ, khiến chúng ta chậm hơn trong tiến trình hội nhập.
Cũng cần nói thêm, tại châu Âu, nông nghiệp số không chỉ dừng ở quản lý sản xuất mà còn được mở rộng sang thương mại carbon, định lượng tín chỉ carbon và phân bổ chính sách phát triển theo vùng. Điều này cho thấy họ đã hoàn thiện thể chế, hạ tầng và nền tảng dữ liệu để vận hành toàn diện hệ sinh thái số trong nông nghiệp.
Đối với Việt Nam, hệ sinh thái số không còn là “có nên làm hay không”, mà là điều kiện bắt buộc để nông sản được công nhận, được tài trợ và tiếp cận thị trường quốc tế.
Về thực trạng liên kết trong nông nghiệp. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay cả nước có khoảng 7.000 mô hình liên kết trong lĩnh vực nông nghiệp; trong đó có khoảng 3.000 mô hình theo Nghị định 98, thu hút 4.000 HTXvà khoảng 600.000 hộ nông dân tham gia.
Một số mô hình liên kết tiêu biểu đã hình thành như: Chuỗi sản xuất – tiêu thụ gạo của Công ty Trung An (xuất khẩu 500.000 tấn/năm); Chuỗi trái cây của Công ty Nam Phúc; Chuỗi sữa của Tập đoàn TH; Chuỗi trồng rừng lớn ở khu vực miền Trung…
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả tích cực, liên kết nông nghiệp của chúng ta vẫn bộc lộ 4 hạn chế lớn. Thứ nhất là tỷ lệ liên kết còn thấp – chỉ khoảng 25% HTX tham gia.
Thứ hai là liên kết chưa sâu, chủ yếu dừng ở khâu mua – bán, bao tiêu sản phẩm theo mùa vụ, thiếu chia sẻ rủi ro, lợi ích và đầu tư chung.
Thứ ba là thiếu cơ chế giám sát, dữ liệu và công cụ truy xuất, khiến việc kiểm soát chất lượng nông sản còn hạn chế.
Thứ tư là thiếu động lực đầu tư vùng nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp chỉ tham gia ở khâu tiêu thụ mà không đồng hành cùng nông dân trong quá trình sản xuất.
Một trong những nguyên nhân quan trọng là năng lực của HTX còn yếu, hạ tầng sản xuất – kinh doanh hạn chế, nguồn lực đầu tư cho logistics, kho bảo quản, chế biến còn thiếu.
Thực tế trên cho thấy sự cần thiết của hệ sinh thái số trong liên kết chuỗi giá trị. Có ba nhóm vấn đề buộc nông nghiệp Việt Nam phải chuyển sang mô hình hệ sinh thái số.
Thứ nhất, yêu cầu của thị trường quốc tế ngày càng khắt khe: nông sản không chỉ cần đạt tiêu chuẩn chất lượng, mà còn phải đảm bảo yếu tố “xanh” – như phát thải carbon, lao động bền vững, truy xuất nguồn gốc rõ ràng.
Thứ hai, các mối liên kết truyền thống thiếu dữ liệu, thiếu niềm tin và thiếu công cụ chia sẻ thông tin. Doanh nghiệp không tin HTX, HTX không tin doanh nghiệp, nông dân không hiểu rõ lợi ích khi tham gia.
Thứ ba, công tác quản lý nhà nước còn chậm đổi mới, các quy định về chuyển đổi số trong liên kết (như trong Nghị định 98) chưa được thể chế hóa.
Do đó, hệ sinh thái số trong nông nghiệp không chỉ là công cụ sản xuất mà là một cuộc cách mạng về niềm tin và dữ liệu – nơi các chủ thể có thể minh bạch hóa thông tin, chia sẻ lợi ích, và cùng vận hành một cách đồng bộ.
Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn cho biết, về định hướng và giải pháp xây dựng hệ sinh thái số trong nông nghiệp. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang triển khai nhiều hoạt động cụ thể.
Thứ nhất, xây dựng nền tảng số dùng chung cho khu vực HTX và kinh tế tập thể, dự kiến hoàn thành và đưa vào vận hành từ tháng 6/2026. Nền tảng này sẽ kết nối dữ liệu về truy xuất nguồn gốc, mã số vùng trồng, tiêu chuẩn sản xuất, logistics, và hợp đồng điện tử.
Thứ hai, phối hợp với các đối tác quốc tế, đặc biệt là Nhật Bản, để học hỏi mô hình hệ sinh thái số của Liên đoàn HTX Nông nghiệp Nhật Bản (JA). Bộ cũng đã ký kết hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ trong và ngoài nước để xây dựng khung dữ liệu, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.
Thứ ba, trong quá trình sửa đổi Nghị định 98, Bộ sẽ thể chế hóa mô hình hệ sinh thái số và chuỗi liên kết số, tạo hành lang pháp lý thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong nông nghiệp.
Hệ sinh thái số trong liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp bao gồm 5 hợp phần cốt lõi:
Nền tảng số dùng chung – tích hợp dữ liệu, kết nối các chủ thể, hỗ trợ quản lý mã số vùng trồng, truy xuất, tiêu chuẩn, logistics.
Phần mềm truy xuất nguồn gốc và nhật ký điện tử – bắt buộc đối với nông dân và HTX tham gia chuỗi.
Số hóa hợp đồng liên kết thông minh – đảm bảo tính pháp lý và minh bạch trong giao dịch.
Hệ thống đo đạc và chứng nhận tín chỉ carbon (MRV) – phục vụ mục tiêu phát triển xanh, chuẩn bị cho thương mại hóa tín chỉ carbon theo Nghị định 06/2022/NĐ-CP.
Sàn thương mại điện tử và bảo hiểm số cho nông sản – hỗ trợ tiêu thụ, bảo hiểm rủi ro, huy động nguồn vốn xanh.
Ba nhóm đối tượng chính tham gia hệ sinh thái gồm: Nhóm 1 là các chủ thể sản xuất – kinh doanh (HTX, doanh nghiệp, nông dân, trang trại). Nhóm 2 là các đơn vị cung cấp dịch vụ (ngân hàng, tổ chức tín dụng, tư vấn kỹ thuật, đơn vị chứng nhận). Nhóm 3 là cơ quan quản lý nhà nước (đào tạo, cấp chứng nhận, giám sát và thực hiện chức năng trọng tài).
Từ thực tế, có thể thấy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp không chỉ là yêu cầu của thời đại mà là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Để thúc đẩy chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong nông nghiệp cần nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý về liên kết chuỗi và hệ sinh thái số; Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, thống nhất; Nâng cao năng lực của HTX– trung tâm của chuỗi liên kết; Tăng cường hợp tác quốc tế, ứng dụng công nghệ và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chuyển đổi số.
“Hệ sinh thái số trong nông nghiệp không chỉ tạo nên sự minh bạch, hiệu quả trong sản xuất mà còn mở ra không gian phát triển mới, xanh hơn – thông minh hơn – bền vững hơn cho nền nông nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập”, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn khẳng định.
Dữ liệu không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là tài sản chiến lược của HTX
“Có thể khẳng định, dữ liệu là nền tảng của quản trị minh bạch và ra quyết định chính xác”, bà Lê Thị Thu Hiền, Trưởng Đại diện Agriterra tại Việt Nam nêu rõ.

Bà Lê Thị Thu Hiền, Trưởng Đại diện Agriterra.
Theo nghiên cứu của Trường Đại học Wageningen (Hà Lan, 2017), việc ứng dụng dữ liệu thông minh giúp tăng năng suất từ 10–20%, đồng thời giảm chi phí sản xuất khoảng 15%.
Do vậy, dữ liệu không chỉ là công cụ quản lý, mà còn là tài sản chiến lược của HTX.
Tại Hà Lan – một quốc gia có dân số chỉ khoảng 18 triệu người nhưng là nước xuất khẩu nông sản lớn thứ hai thế giới, HTX được xem là biểu tượng của tinh thần hợp tác và đổi mới.
Triết lý hoạt động của họ là hợp tác trên tinh thần cùng có lợi, chia sẻ dữ liệu trong chuỗi giá trị, và dữ liệu phải thuộc về thành viên HTX.
Ba trụ cột trong chuyển đổi số của HTX Hà Lan được xác định gồm: Tái định hình thị trường thông qua hệ sinh thái số. Chia sẻ dữ liệu liên thông giữa các bên trong chuỗi. Tận dụng hiệu quả mạng lưới số hóa để giảm chi phí và tăng hiệu suất toàn chuỗi giá trị. Điều này tạo tiền đề cho nông nghiệp thông minh, giúp giảm lãng phí tài nguyên và nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Để làm rõ hơn kinh nghiệm chuyển đổi số trong HTX tại Hà Lan, Trưởng Đại diện Agriterra tại Việt Nam nêu một số ví dụ điển hình.
Thứ nhất, mô hình của Tổ chức nông dân LTO (2017) cho thấy 40% nông dân chưa cảm thấy an toàn khi chia sẻ dữ liệu. Từ đó, LTO phối hợp với Ngân hàng Rabobank và các tổ chức công nghệ xây dựng hệ thống dữ liệu dùng chung (Data Cooperative), nơi người nông dân là chủ sở hữu dữ liệu, kiểm soát quyền truy cập và chia sẻ thông tin.
Hiện nay, hệ thống này có hơn 16.000 nông hộ và 260 doanh nghiệp tham gia, giúp minh bạch hóa giao dịch dữ liệu và tăng độ tin cậy trong chuỗi cung ứng.
Thứ hai, HTX Royal FloraHolland – HTX hoa lớn nhất Hà Lan, với doanh thu năm 2024 đạt 5,2 tỷ Euro. Thời gian qua, HTX Royal FloraHolland xây dựng nền tảng số Floriday, kết nối hơn 5.500 nhà trồng hoa và 2.500 nhà mua hàng trên toàn cầu, tích hợp hệ thống quản lý nông trại, kho vận và logistics. Nhờ đó, chuỗi cung ứng được rút ngắn, minh bạch, giảm chi phí trung gian, mở rộng thị trường tới hơn 60 quốc gia.
Thứ ba, HTX sữa FrieslandCampina – công ty sở hữu thương hiệu Cô gái Hà Lan tại Việt Nam – có 14.000 thành viên tại Hà Lan, Bỉ và Đức, doanh thu năm 2024 hơn 13 tỷ Euro. HTX áp dụng IoT, cảm biến và tự động hóa trong chăn nuôi bò sữa, thu thập dữ liệu về sức khỏe, năng suất và phát thải carbon, từ đó tính toán chi trả cho nông dân dựa trên chỉ số phát triển bền vững. Riêng năm 2024, HTX đã chi trả 245 triệu Euro cho các thành viên đáp ứng tiêu chuẩn xanh.
Thứ tư, Ngân hàng Rabobank, ngân hàng hợp tác lớn nhất Hà Lan, ứng dụng nền tảng FarmData360, tích hợp dữ liệu tài chính, khí hậu và sản xuất để đánh giá rủi ro tín dụng chính xác hơn. Kết quả, tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,8% xuống còn 1,2%, đồng thời giảm 40% khối lượng công việc hành chính.
Về kinh nghiệm mở rộng sang châu Á, một ví dụ là Liên đoàn HTX sữa Katipunan - KKMI (Philippines), với hơn 400 thành viên.
Khi Agriterra hợp tác đã giúp trực quan hóa dữ liệu chi phí, xác định 20% thành viên có chi phí thức ăn cao hơn trung bình 35%, từ đó tổ chức tập huấn kỹ thuật giúp giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
Tại Việt Nam, Agriterra hiện đang triển khai hợp tác với HTX Kiến Thành (Cần Thơ, trước là Hậu Giang), phối hợp cùng Công ty Sorimachi để ứng dụng phần mềm kế toán và quản lý sản xuất. HTX Nông nghiệp Nghĩa Bình (Nam Định), nơi nhóm thanh niên HTX tiên phong thử nghiệm phần mềm FaceFarm để truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Đáng tiếc, thiên tai (bão số 10) gần đây đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, nhưng những mô hình thí điểm này vẫn cho thấy tiềm năng đáng kể.
Về một số thách thức trong chuyển đổi số tại Việt Nam. Qua các mô hình thực tiễn, Agriterra nhận thấy một số thách thức lớn: Đa số thành viên HTX còn hạn chế về kỹ năng công nghệ thông tin. Thiếu động lực chuyển đổi số, do đầu ra sản phẩm chưa ổn định. Chất lượng Internet ở nông thôn chưa đồng đều. Quá nhiều ứng dụng số, thiếu tính liên thông và đồng bộ hóa dữ liệu.
Những thách thức trên là “bài toán con gà – quả trứng” giữa thị trường và chuyển đổi số: nếu không có thị trường ổn định, nông dân sẽ ngại áp dụng công nghệ; nhưng nếu không áp dụng công nghệ, sản phẩm lại khó tiếp cận thị trường cao cấp.
Từ kinh nghiệm của Hà Lan và thực tiễn Việt Nam, Trưởng Đại diện Agriterra tại Việt Nam đề xuất một số hướng đi sau:
Ở cấp vĩ mô cần bảo đảm người nông dân là chủ sở hữu dữ liệu. Có khung pháp lý rõ ràng về quyền truy cập và sử dụng dữ liệu. Đầu tư vào nguồn nhân lực số trong hệ thống HTX.
Ở cấp HTX cần bắt đầu từ những việc cụ thể, nhỏ và cấp bách nhất, tránh ôm đồm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ phù hợp, dễ dùng cho nông dân. Đào tạo, hướng dẫn liên tục, xây dựng “hạt nhân số” – ít nhất 2 cán bộ trẻ phụ trách công nghệ trong mỗi HTX.
Về quản trị dữ liệu cần chuẩn hóa và khai thác dữ liệu thành viên như một tài sản quản trị cốt lõi. Đánh giá hiệu quả sau từng vụ mùa, rút kinh nghiệm, cập nhật dữ liệu liên tục. Gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp công nghệ và tổ chức tư vấn để nhận hỗ trợ kịp thời.
“Chúng tôi tin rằng, thông qua chia sẻ và hợp tác quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể phát triển các mô hình HTX hiện đại, minh bạch, dựa trên dữ liệu và công nghệ, góp phần vào chuyển đổi xanh và nông nghiệp bền vững”, Trưởng Đại diện Agriterra tại Việt Nam nhấn mạnh.
Kết quả khảo sát về ứng dụng số trong HTX
Tại Diễn đàn, Ban tổ chức đã khảo sát các đại biểu, chuyên gia, đại diện HTX về ứng dụng số trong các HTX hiện nay, với kết quả rất đáng chú ý. 65% đại biểu cho biết đơn vị mới ở giai đoạn đầu của chuyển đổi số. Hơn 47% thiếu nhân lực có kỹ năng công nghệ là rào cản lớn nhất. Và gần 40% tin rằng chuyển đổi số mạnh nhất hiện này là quản lý sản xuất và vùng nguyên liệu.



Đồng hành cùng HTX thúc đẩy chuyển đổi số trong nông nghiệp
Ông Nguyễn Thanh Mộng, Giám đốc phát triển thị trường Việt Nam, Công ty TNHH Sorimachi cho biết, Từ năm 2021 đến tháng 5/2025, Sorimachi đã phối hợp chặt chẽ cùng Trung tâm Phát triển Nông thôn (DCRD) - Bộ Nông nghiệp và Môi trường (MAE), Liên minh HTX Việt Nam (VCA), các trường viện thuộc MAE và nhiều địa phương triển khai hàng loạt hoạt động chuyển đổi số thiết thực.

Ông Nguyễn Thanh Mộng, Giám đốc phát triển thị trường Việt Nam, Công ty TNHH Sorimachi.
Trọng tâm của chương trình là 3 phần mềm then chốt: WACA – phần mềm kế toán HTX giúp số hóa sổ sách và minh bạch tài chính; FaceFarm – nhật ký sản xuất điện tử hỗ trợ quản lý quy trình, truy xuất nguồn gốc và chứng nhận GAP; cùng Hanbai – phần mềm quản lý bán hàng giúp HTX mở rộng thị trường và tiêu thụ nông sản thuận lợi hơn.
Sau hơn 3 năm triển khai, những nỗ lực này đã đem lại kết quả đáng ghi nhận. Gần 10.000 HTX nông nghiệp trên toàn quốc đã được đào tạo về chuyển đổi số; hơn 5.000 HTX đang sử dụng các phần mềm của Sorimachi, trong đó 1.000 HTX tự đầu tư mua bản quyền bằng kinh phí của mình.
Đặc biệt, 12 tỉnh, thành phố đã chủ động bố trí ngân sách địa phương để hỗ trợ triển khai phần mềm cho các HTX.
Không chỉ dừng ở đó, Sorimachi còn phối hợp cùng nhiều trường đại học để đào tạo hơn 1.000 sinh viên về công nghệ số trong nông nghiệp. Các sinh viên được tiếp cận thực hành trực tiếp trên hệ thống phần mềm, từ khâu quản lý sản xuất, truy xuất nguồn gốc đến lập báo cáo tài chính, góp phần hình thành đội ngũ nhân lực số chất lượng cho ngành nông nghiệp Việt Nam trong tương lai.
“Các phần mềm do công ty phát triển mang lại hai nhóm lợi ích rõ rệt. Đối với cơ quan quản lý, dữ liệu số hóa từ phần mềm giúp theo dõi tình hình hoạt động của HTX một cách minh bạch, kịp thời và chính xác hơn. Nhờ hệ thống này, các Cục, Sở và Liên minh HTX có thể dễ dàng tổng hợp báo cáo, phân tích xu hướng, đánh giá hiệu quả hoạt động của từng HTX hoặc từng địa phương, từ đó hỗ trợ hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu thực tế”, đại diện Sorimachi Việt Nam chia sẻ.
Về phía HTX, việc ứng dụng phần mềm giúp minh bạch tài chính, quản lý sản xuất khoa học, giảm rủi ro và tối ưu chi phí. Đặc biệt, khả năng kết nối thị trường thông qua hệ thống quản lý bán hàng điện tử giúp HTX chủ động hơn trong tiêu thụ nông sản, nâng cao uy tín và hiệu quả kinh doanh. Đây chính là nền tảng hướng tới mô hình HTX hiện đại, bền vững và có khả năng hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong giai đoạn tiếp theo, Sorimachi đặt mục tiêu mở rộng và hoàn thiện hệ sinh thái phần mềm hỗ trợ HTX. Doanh nghiệp sẽ phối hợp cùng VCA phát triển phần mềm Quản lý thành viên HTX, giúp quản lý thông tin thành viên, vốn góp và quyền lợi một cách minh bạch, đồng bộ với hệ thống kế toán, sản xuất và bán hàng hiện có.
Đồng thời, cùng DCRD xây dựng nền tảng số dùng chung cho toàn bộ HTX nông nghiệp Việt Nam, hướng tới hình thành hệ sinh thái dữ liệu thống nhất, liên thông giữa HTX – địa phương – Bộ, tiến tới chính phủ số trong lĩnh vực nông nghiệp.
Sorimachi cũng dự kiến tích hợp công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) vào các phần mềm, nhằm phân tích dữ liệu sản xuất, dự báo mùa vụ, chi phí, và hỗ trợ ra quyết định cho người quản lý HTX. Song song đó, công ty tiếp tục mở rộng hoạt động đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn triển khai tại các địa phương, giúp HTX sử dụng phần mềm một cách hiệu quả, thực chất.
Tuy nhiên, hành trình chuyển đổi số trong khu vực kinh tế hợp tác vẫn đối mặt với không ít thách thức. Nhiều HTX hiện còn hạn chế về nhân lực, kỹ năng và điều kiện hạ tầng công nghệ.
Theo đó, Sorimachi mong muốn các Bộ, ngành và Liên minh HTX Việt Nam tiếp tục tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ thực tế cho HTX, từ đào tạo nhân lực, xây dựng mô hình điểm đến hỗ trợ kỹ thuật tại chỗ. Chỉ khi HTX thực sự làm chủ được công nghệ, chuyển đổi số mới trở thành động lực cốt lõi thúc đẩy phát triển bền vững khu vực kinh tế hợp tác.
“Chuyển đổi số không chỉ là câu chuyện công nghệ, mà là sự thay đổi tư duy và phương thức quản lý”, đại diện Sorimachi nhấn mạnh. Với sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sự đồng hành của Liên minh HTX Việt Nam cùng nỗ lực của các HTX trên khắp cả nước, doanh nghiệp tin tưởng rằng Việt Nam hoàn toàn có thể xây dựng một nền nông nghiệp số hóa, minh bạch và hội nhập quốc tế”, ông Mộng chia sẻ.
Chuyển đổi số mở ra cơ hội mới cho đồng bào miền núi

Bà Trần Thị Thu Lan, Giám đốc HTX sản xuất dịch vụ nông sản Bản Quyền.
Tại Diễn đàn, bà Trần Thị Thu Lan, Giám đốc HTX sản xuất dịch vụ nông sản Bản Quyền (xã Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn), chia sẻ câu chuyện về hành trình đưa nông sản miền núi vươn xa nhờ ứng dụng công nghệ số.
HTX Bản Quyền hoạt động tại khu vực miền núi Đông Bắc, nơi có cộng đồng dân cư đa dạng gồm các dân tộc Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa… Trong đó, người Tày và Nùng chiếm gần một nửa dân số.
Theo bà Lan, chuyển đổi số đã mở ra cơ hội mới cho đồng bào miền núi. Nhờ nền tảng công nghệ, bà con có thể quảng bá, giới thiệu nông sản đặc sản của địa phương đến người tiêu dùng trong và ngoài nước mà không cần rời khỏi bản làng.
“Giờ đây, ngay cả khi ở trên núi, chúng tôi vẫn có thể giới thiệu sản phẩm của mình đến khắp mọi miền đất nước, thậm chí cả khách hàng quốc tế”, bà Lan chia sẻ.
Từ sau đại dịch Covid-19, trước khó khăn về đầu ra nguyên liệu thô, HTXđã chuyển hướng sang chế biến sâu, phát triển các sản phẩm trà và dược liệu từ hoa hồi, quế – những loại cây đặc sản của Lạng Sơn.
Các sản phẩm như trà bao hồi, cao hồi, gối dược liệu được kết hợp cùng thảo dược bản địa, có tác dụng hỗ trợ chống đột quỵ, làm lành niêm mạc dạ dày, giảm đau khớp, thư giãn tinh thần.
“Chúng tôi tận dụng tối đa những gì thiên nhiên ban tặng, từ lá hồi, lá quế, cho đến các loại thảo dược quý của rừng để tạo ra sản phẩm có giá trị cao, vừa phục vụ sức khỏe người tiêu dùng, vừa giúp tăng thu nhập cho bà con vùng cao”, Giám đốc Bản Quyền nói.
Đáng chú ý, thời gian qua, các sản phẩm của HTX đã được giới thiệu trên nhiều sàn thương mại điện tử như TikTok, Zalo, Facebook, Shopee,… góp phần mở rộng thị trường tiêu thụ.
Tuy nhiên, bà Lan cũng thẳng thắn thừa nhận việc tiếp cận và vận hành công nghệ số vẫn còn nhiều khó khăn.
“Chúng tôi mới bước đầu làm quen với công nghệ, còn hạn chế về nhân lực, kỹ năng marketing và thông tin thị trường. Vì vậy, HTX rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các cấp, các ngành – đặc biệt là Liên minh HTX Việt Nam – trong việc tập huấn, đào tạo, giúp bà con miền núi ứng dụng hiệu quả nền tảng số”, bà Lan kiến nghị.
Bên cạnh mục tiêu kinh tế, HTX đang hướng đến mô hình sản xuất xanh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ tài nguyên rừng. Hoạt động sản xuất, chế biến gắn với việc tạo việc làm ổn định cho người dân địa phương, đặc biệt là phụ nữ và lao động dân tộc thiểu số.
Đại diện HTX tin rằng khi nông dân được hỗ trợ tiếp cận công nghệ, được đào tạo kỹ năng số, thì không chỉ sản phẩm được nâng tầm mà đời sống bà con cũng sẽ được cải thiện bền vững.
Thay mặt HTX, bà Lan đưa ra một số kiến nghị thiết thực.
Trước hết, kiến nghị Liên minh HTX Việt Nam hỗ trợ xây dựng kênh bán hàng chuyên nghiệp, giúp các HTX quảng bá và tiêu thụ sản phẩm hiệu quả hơn;
Cùng với đó là tăng cường kết nối chuyên gia nghiên cứu, phân tích thành phần dược liệu địa phương để nâng cao chất lượng sản phẩm; Tổ chức khu trưng bày, giới thiệu nông sản đặc sản của các tỉnh, thành trong hệ thống Liên minh HTX Việt Nam, tạo cơ hội giao thương và xúc tiến thương mại cho các HTX vùng sâu, vùng xa.
“Chúng tôi là những người mới bước vào hành trình chuyển đổi số, còn nhiều bỡ ngỡ và thiếu kinh nghiệm. Nhưng nhờ sự đồng hành của Đảng, Nhà nước và Liên minh HTX Việt Nam, chúng tôi tin tưởng rằng con đường đưa nông sản bản địa vươn xa sẽ ngày càng rộng mở”, bà Lan bày tỏ.
Có thể nói, thành công của HTX Bản Quyền không chỉ là kinh nghiệm thực tiễn của một HTX vùng núi trong quá trình chuyển đổi số, mà còn là minh chứng sống động cho sức mạnh của công nghệ khi được ứng dụng đúng hướng vào nông nghiệp – nơi mỗi sản phẩm bản địa đều có thể trở thành thương hiệu, mỗi nông dân có thể trở thành người kinh doanh trên nền tảng số.
Chuyển đổi số là bước đi của sự tự tin

Ông Lê Văn Tám, Chủ tịch HĐQT HTX Nông nghiệp Sông Hồng (Hà Nội).
Đến với Diễn đàn, đầu tiên, ông Lê Văn Tám, Giám đốc HTX Nông nghiệp Sông Hồng (Hà Nội) chia sẻ về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi xanh – hai xu hướng không thể tách rời trong tiến trình phát triển nông nghiệp hiện đại.
“Trên tay tôi lúc này là một sản phẩm của HTX mà tôi trực tiếp tham gia sáng tạo. Trước đây, tôi từng đi cơ giới hóa đồng bộ cho bà con nông dân, hướng dẫn họ cách trồng lúa, trồng rau sạch, sản xuất nông sản an toàn…”, ông Tám kể.
Khi đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông Tám nhận ra rằng bà con nông dân rất chịu khó, nhưng vẫn còn làm nông theo lối cũ, sơ sài trong khâu sản xuất và đặc biệt là thiếu khâu chế biến sâu. Ông từng hướng dẫn bà con trồng rau củ rất tốt, nhưng đến khi thu hoạch thì lại rơi vào cảnh bị ép giá, sản phẩm mất giá trị vì không có khâu bảo quản hay chế biến phù hợp.
“Từ thực tế đó, tôi nhận thấy chúng ta không thể mãi bán nông sản thô. Phải chế biến sâu, phải sáng tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Đó không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà còn là hướng đi để người nông dân thật sự “làm chủ” giá trị lao động của mình”, Giám đốc HTX Sông Hồng nói.
Theo ông Tám, phát triển nông nghiệp không thể chỉ dừng ở năng suất, mà còn phải phát triển bền vững, phát triển xanh. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã cam kết mạnh mẽ tại các diễn đàn quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, tiến tới mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chính vì vậy, HTX Nông nghiệp Sông Hồng đã ấp ủ ý tưởng tạo ra những sản phẩm “xanh” – sản phẩm không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn thể hiện trách nhiệm xã hội và đạo đức môi trường.
“Tôi gọi đó là những sản phẩm tử tế - tử tế vì chúng ta hỗ trợ được bà con tiêu thụ nông sản, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, và hơn hết là bảo vệ môi trường sống”, vị đại diện HTX nói thêm.
Dù có nhiều thành công, tuy nhiên, theo ông Tám, đôi khi ông vẫn thấy buồn. Buồn vì cộng đồng chưa thật sự chung tay thay đổi hành vi tiêu dùng. Không chỉ là thói quen, mà là hành vi. Nhiều người sẵn sàng chi 40–50 nghìn đồng cho một ly trà sữa, nhưng lại đắn đo khi bỏ ra số tiền tương tự để mua một sản phẩm nông nghiệp sạch, tử tế, thân thiện môi trường.
Nếu mỗi người tiêu dùng thay đổi cách nghĩ, hướng đến sự tử tế trong lựa chọn của mình, thì nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp bền vững sẽ phát triển nhanh hơn rất nhiều.
Nói thêm về chuyển đổi số, ông Tám nhấn mạnh đây là bước đi của sự tự tin. “Là một người nông dân, tôi từng rất rụt rè, sợ hãi khi phải phát biểu trước đám đông hay tham gia những diễn đàn lớn. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng chuyển đổi số cũng giống như hành trình vượt qua nỗi sợ ấy - cần bắt đầu, cần dám làm, dám nói, dám thay đổi”, ông Tám bày tỏ.
Làm sao để chuyển đổi số thực sự trở thành động lực kết nối, chứ không chỉ là công cụ lưu trữ

Bà Vũ Thị Liễu, Founder và CEO CTCP nghiên cứu sản xuất và phát triển sợi Eco.
Bà Vũ Thị Liễu, Founder và CEO CTCP nghiên cứu sản xuất và phát triển sợi Eco cho biết, công ty đang sản xuất sợi và vải từ lá dứa (lá khóm) – một phụ phẩm nông nghiệp rất dồi dào ở Việt Nam.
Eco ra đời với sứ mệnh “biến rác thải nông nghiệp thành tài nguyên xanh”, phát triển công nghệ sản xuất sợi và vải từ lá dứa – cung cấp cho ngành dệt may và thời trang bền vững.
“Khi bắt đầu xuất khẩu sang Nhật Bản, chúng tôi nhận thấy khách hàng đặt ra yêu cầu vô cùng khắt khe về truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Họ muốn biết rõ lá dứa lấy từ nông hộ nào, ai là người thu hoạch, người tách sợi, lô hàng được đóng gói trên pallet số bao nhiêu, nhập kho ngày nào, sản xuất ra sao, và quy trình kỹ thuật được áp dụng thế nào”, bà Liễu kể.
Những yêu cầu tưởng như “tỉ mỉ quá mức” ấy lại chính là bài học đầu tiên về chuyển đổi số mà phía đối tác Nhật Bản đã vô tình dạy cho đội ngũ công ty. Ban đầu, đội ngũ Eco phải quay lại từng HTX, từng nông hộ để tra cứu thủ công thông tin – một công việc mất rất nhiều thời gian.
Nhưng từ đó, công ty hiểu rằng chuyển đổi số không chỉ là phần mềm hay thiết bị thông minh, mà trước hết là việc tạo ra và duy trì dữ liệu chính xác từ những người trực tiếp sản xuất.
Bà Liễu nhìn nhận nhiều người vẫn nghĩ “chuyển đổi số” là một điều gì đó to tát, xa vời. Nhưng theo kinh nghiệm của Eco, nền tảng quan trọng nhất là dữ liệu, và người nhập dữ liệu chính là người làm việc trực tiếp.
Nếu chỉ mời chuyên gia đến nhập dữ liệu ban đầu, thông tin sẽ nhanh chóng lỗi thời. Chỉ khi chính người nông dân, người công nhân, người kỹ thuật viên được hướng dẫn cách ghi chép, cập nhật thường xuyên, thì dữ liệu mới “sống” và có giá trị thật sự.
“Đó cũng là lý do Eco coi trọng đào tạo năng lực số cho người lao động. Việc giúp bà con nông dân, thành viên HTX từ chỗ “chưa hiểu” đến “hiểu”, rồi “biết làm”, và “làm thường xuyên” là cả một hành trình dài. Giống như ai cũng biết tập thể dục tốt cho sức khỏe, nhưng không phải ai cũng duy trì được thói quen đó mỗi ngày. Chuyển đổi số trong nông nghiệp cũng vậy, phải bắt đầu từ những việc nhỏ nhất, từ thói quen ghi chép, lưu trữ, và chia sẻ dữ liệu”, bà Liễu chia sẻ.
Eco hiện liên kết với nhiều HTXở các vùng trồng dứa. Công ty thu mua lá dứa, hướng dẫn bà con kỹ thuật tách sợi, sơ chế. Tuy nhiên, khi yêu cầu họ nhập dữ liệu, phần lớn đều gặp khó khăn. Không phải vì họ không muốn, mà vì chưa quen với thao tác số, chưa thấy lợi ích trước mắt.
“Ngay cả bản thân doanh nghiệp chúng tôi - một startup - cũng đối mặt nhiều thách thức. Là người sáng lập và điều hành, tôi có thể nói về “chuyển đổi số” rất trôi chảy, nhưng khi bắt tay vào triển khai, chúng tôi phải tự tìm hiểu mọi thứ: chọn phần mềm nào, phần mềm nào vừa đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế (để xuất khẩu), vừa phù hợp với quy định tài chính của Việt Nam. Một phần mềm tốt không chỉ là nơi lưu trữ dữ liệu, mà còn phải phân tích, xuất báo cáo, đối chiếu tiêu chuẩn quốc tế, và gợi ý giải pháp thông minh”, bà Liễu kể.
Tuy nhiên, bà Liễu cũng thừa nhận, đến nay, công ty vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể hoặc một nền tảng chuẩn dùng chung, nên phần lớn dữ liệu vẫn được quản lý bằng file Excel, rất thủ công và dễ sai sót. Điều này cho thấy nhu cầu cấp thiết về sự đồng hành, hỗ trợ kỹ thuật và hạ tầng số từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
Chuyển đổi số sẽ chỉ bền vững khi dữ liệu của doanh nghiệp có thể kết nối với hệ thống dữ liệu quốc gia. Công ty mong muốn có một cổng thông tin một cửa, nơi dữ liệu của doanh nghiệp, từ năng lực sản xuất, vùng nguyên liệu, sản phẩm mới, có thể đồng bộ với dữ liệu của Chính phủ. Khi đó, cơ quan quản lý có thể nắm bắt tình hình thực tế, còn doanh nghiệp cũng dễ dàng được hỗ trợ khi mở rộng sản xuất, tiếp cận vốn hoặc kết nối đầu tư.
Hơn thế nữa, nếu nền tảng dữ liệu này tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI), nó hoàn toàn có thể “gợi ý thông minh” cho các bên tham gia. Ví dụ doanh nghiệp cần mở rộng vùng nguyên liệu lá dứa, hệ thống có thể gợi ý HTX phù hợp ở từng địa phương; hoặc nhà đầu tư tìm cơ hội trong lĩnh vực dệt may xanh, nền tảng có thể giới thiệu các doanh nghiệp như Eco. Khi đó, chuyển đổi số thực sự trở thành động lực kết nối - chứ không chỉ là công cụ lưu trữ.
Sàn thương mại điện tử thuần Việt cho nông sản Việt

Ông Kiều Tiến Anh, CEO nền tảng thương mại điện tử SQC
Tại Diễn đàn, ông Kiều Tiến Anh, CEO nền tảng thương mại điện tử SQC – sàn thương mại điện tử thuần Việt đầu tiên dành cho nông sản, đã chia sẻ những giải pháp đột phá giúp doanh nghiệp và HTX đưa sản phẩm nông nghiệp đến tay người tiêu dùng với chi phí thấp nhất và hiệu quả cao nhất.
Theo ông Tiến Anh, thương mại điện tử Việt Nam đã phát triển hơn 20 năm và hiện xếp thứ 3 khu vực châu Á (sau Trung Quốc và Thái Lan). Tuy nhiên, điều đáng buồn là tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp trên các sàn chỉ chiếm khoảng 6-7% tổng số đơn hàng, một con số quá nhỏ bé nếu so với tiềm năng của một quốc gia nông nghiệp như Việt Nam.
“Chúng ta có hàng nghìn sản phẩm OCOP, hàng trăm HTX sản xuất nông sản đạt tiêu chuẩn 4-5 sao, nhưng lại khó tiếp cận người tiêu dùng trực tuyến. Rào cản nằm ở phí sàn, chi phí quảng cáo và các bước trung gian khiến giá bán đội lên, trong khi nông dân và HTX không có đủ năng lực vận hành thương mại điện tử”, ông Tiến Anh nhận định.
Ra đời chưa đầy một năm, SQC (Hi-1 Việt Nam) đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm của báo chí và cơ quan quản lý nhà nước bởi mô hình “thương mại điện tử thuần Việt – vì nhà sản xuất Việt”. SQC hiện là sàn đầu tiên ký kết hợp tác với Trung tâm Xúc tiến Thương mại Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, HTX, làng nghề đưa sản phẩm nông nghiệp lên sàn theo hướng minh bạch, chính quy và không mất phí.
Đặc biệt, SQC còn hợp tác chiến lược với ngân hàng triển khai chương trình vay tín chấp đến 1 tỷ đồng dành cho doanh nghiệp và HTX hoạt động trên nền tảng Hi-1 Việt Nam – một giải pháp tài chính số hoàn toàn mới, giúp các đơn vị mở rộng sản xuất mà không cần thế chấp tài sản.
Song song đó, SQC cũng ký kết với một doanh nghiệp vận chuyển hàng đầu đến vùng sâu, vùng xa, bảo đảm chuỗi logistics liền mạch cho hàng nông sản. Kênh truyền thông chính thức của dự án cũng được triển khai nhằm lan tỏa mô hình thương mại điện tử thuần Việt đến cộng đồng.
Ông Tiến Anh cho biết, nếu các sàn thương mại điện tử hiện nay như Shopee, Lazada chủ yếu vận hành theo mô hình C2C (cá nhân bán cho cá nhân) hoặc B2C (doanh nghiệp bán cho khách hàng), thì SQC theo đuổi hướng đi mới: “S2C – Supplier to Consumer”, tức là kết nối trực tiếp nhà sản xuất – người tiêu dùng.
Điểm khác biệt lớn nhất của SQC là không thu bất kỳ loại phí nào: Không phí sàn, Không phí trung gian, Không phí quảng cáo.
Theo ông Tiến Anh, đây là mô hình đầu tiên không chỉ tại Việt Nam mà còn trong khu vực châu Á. Mỗi sản phẩm trên SQC đều đến từ doanh nghiệp hoặc HTX có mã số thuế, hóa đơn đầu vào – đầu ra rõ ràng, đảm bảo minh bạch và truy xuất nguồn gốc. Nhờ đó, chi phí vận hành giảm 10–60%, giá thành bán lẻ giảm tương ứng, mang lại lợi ích thực tế cho cả người bán lẫn người mua.
Một trong những giá trị cốt lõi mà SQC hướng tới là hỗ trợ nông dân và HTX chuyển đổi số thực chất. Trên nền tảng này, mọi đơn vị sản xuất có đầy đủ giấy tờ, hóa đơn đều có thể mở gian hàng và bán trực tiếp đến người tiêu dùng hoàn toàn miễn phí.
SQC còn cung cấp dịch vụ “một cửa” – hỗ trợ HTX đăng ký bảo hộ thương hiệu, truy xuất nguồn gốc, cấp mã QR sản phẩm và xác thực pháp lý. “Nông dân chỉ cần tập trung làm ra sản phẩm chất lượng, còn toàn bộ khâu chuyển đổi số, truyền thông, bán hàng trực tuyến – chúng tôi sẽ đồng hành trọn gói”, ông Tiến Anh khẳng định.
Ông cũng cho biết, bài học từ 20 năm trước – khi nhiều doanh nghiệp đầu tư website rồi “bỏ hoang” – vẫn còn nguyên giá trị. “Chuyển đổi số không chỉ là có gian hàng hay có app, mà là có hệ sinh thái hỗ trợ vận hành thực chất”, ông nhấn mạnh.
Với khách hàng, SQC mang lại lợi ích rõ ràng: Giá rẻ hơn 30–40% so với mua hàng qua sàn trung gian, do không có phí quảng cáo và hoa hồng. Sản phẩm chính hãng, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, có hóa đơn đầu vào – đầu ra. Bảo đảm an toàn thương hiệu và sức khỏe, khi các mặt hàng thực phẩm, mỹ phẩm, sản phẩm OCOP đều phải có mã định danh G-SHOCK nguồn gốc trước khi được phép bán.
Đây cũng là giải pháp giúp ngăn chặn hàng giả, hàng nhái, hàng xách tay, vấn nạn đang làm méo mó thị trường thương mại điện tử hiện nay. Hai chính sách mới của Chính phủ, yêu cầu hóa đơn điện tử và kiểm soát hàng hóa trực tuyến - sẽ là “cú hích kép” giúp các sản phẩm nông sản, đặc sản vùng miền có cơ hội vươn lên mạnh mẽ.
“SQC không chỉ là một sàn thương mại, mà là một hệ sinh thái số vì nông sản Việt”, ông Kiều Tiến Anh kết luận. Với chiến lược thuần Việt – phi phí – minh bạch – kết nối tận gốc, nền tảng này mở ra hướng đi mới cho nông dân, HTX và doanh nghiệp nhỏ, giúp họ chuyển đổi số thực chất, bán hàng dễ dàng và tiếp cận khách hàng toàn quốc mà không cần lo về chi phí hay công nghệ.
Phát huy tiềm năng sản phẩm đặc hữu trong kỷ nguyên chuyển đổi số

Ông Lưu Văn Diễn, Chủ tịch HTX Vĩnh Thái.
Ông Lưu Văn Diễn, Chủ tịch HTX Vĩnh Thái (Khánh Hòa) chia sẻ về định hướng phát triển mô hình sản xuất gắn với chuyển đổi số tại Khánh Hòa – vùng đất nổi tiếng với những sản phẩm đặc hữu như yến sào và gió bầu trầm hương.
Nhắc đến Khánh Hòa, ai cũng biết đến yến sào là “vàng trắng” của biển, và trầm hương là “hương trời” của núi. Trước đây, Khánh Hòa từng có nhiều vùng chuyên canh cây gió bầu trầm hương, tập trung tại các khu vực như Ninh Hòa, Vạn Ninh và Diên Khánh. Tuy nhiên, do khai thác quá mức và thiếu tái sinh, nguồn cây tự nhiên gần như cạn kiệt.
Trong quá trình tìm hiểu, HTX Vĩnh Thái nhận thấy cây gió bầu trầm hương vẫn có tiềm năng kinh tế rất lớn nếu được trồng lại bằng hướng đi mới, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong quy trình trồng, chăm sóc và khai thác.
Hiện nay, một số viện nghiên cứu và trường đại học, trong đó có Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, đã nghiên cứu, lai tạo thành công giống gió bầu Kỳ Nam Hải, dòng cây được ứng dụng công nghệ sinh học giúp rút ngắn thời gian sinh trưởng xuống chỉ còn 6 năm, thay vì hơn 10 năm như giống truyền thống. Đồng thời, quy trình tạo trầm cũng được công nghệ hóa và chuẩn hóa, giảm bớt sự phức tạp, tăng tính ổn định của sản phẩm.
Điểm đặc biệt của mô hình này là việc ứng dụng chuyển đổi số ngay từ giai đoạn đầu. HTX Vĩnh Thái phối hợp với các HTX nông nghiệp xanh xây dựng nhật ký điện tử cho từng hộ trồng trầm, ghi lại toàn bộ quy trình chăm sóc, độ ẩm, lượng nước tưới, nhiệt độ và thời tiết. Từ dữ liệu này, hệ thống sẽ tự động tính toán, đưa ra các khuyến nghị kỹ thuật nhằm tối ưu sinh trưởng và chất lượng trầm.
Đây chính là bước đi quan trọng để hướng tới nông nghiệp thông minh, giúp người dân giảm rủi ro, kiểm soát chi phí, nâng cao năng suất và tạo ra sản phẩm đạt chuẩn xuất khẩu. Đồng thời, toàn bộ dữ liệu này sẽ là nền tảng để xây dựng chuỗi giá trị minh bạch, truy xuất nguồn gốc điện tử cho sản phẩm trầm hương Khánh Hòa.
HTX Vĩnh Thái cũng đã làm việc với Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh để đặt đề tài nghiên cứu cho sinh viên về chuyển đổi số trong trồng trầm hương và cây lâm nghiệp giá trị cao. Mục tiêu là giúp sinh viên có cơ hội thực hành trên mô hình thực tế, đồng thời giúp HTX có thêm giải pháp khoa học trong quản lý, tạo trầm, và tối ưu hóa năng suất cây trồng.
Bên cạnh hoạt động trồng trầm, HTX Vĩnh Thái đang cùng các HTX bạn trong khu vực xúc tiến thành lập Liên hiệp HTX Việt Nam, Chi nhánh miền Trung, trước mắt đặt tại Khánh Hòa. Mục tiêu là kết nối các HTX cùng ngành, tạo mạng lưới hợp tác, chia sẻ công nghệ, vốn và kinh nghiệm quản trị. Sau khi hoàn thiện mô hình điểm tại Khánh Hòa sẽ mở rộng ra các địa phương lân cận.
“Chuyển đổi số không chỉ là câu chuyện của các doanh nghiệp lớn, mà đang trở thành chìa khóa mở ra hướng đi mới cho các HTX nông nghiệp và phi nông nghiệp. Qua mô hình cây trầm hương tại Khánh Hòa, chúng tôi mong muốn lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ để nâng tầm giá trị nông sản địa phương, đồng thời đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững mà Liên minh HTX Việt Nam đang định hướng”, Giám đốc HTX Vĩnh Thái chia sẻ.
Kiên trì theo đuổi con đường sản xuất sạch, minh bạch và chuyển đổi số

Bà Vũ Thị Lệ Thủy, Giám đốc HTX 3T Nông Sản Cao Phong.
Bà Vũ Thị Lệ Thủy, Giám đốc HTX 3T Nông Sản Cao Phong (Phú Thọ) cho biết, HTX 3T Nông Sản Cao Phong là một trong những đơn vị tiên phong ứng dụng công nghệ số trong sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, HTX đã được tiếp cận và sử dụng phần mềm nhật ký điện tử Phafarm để quản lý sản xuất và truy xuất nguồn gốc sản phẩm cam Cao Phong.
Sau 3 năm triển khai, phần mềm này đã giúp HTX nâng cao hiệu quả quản lý và minh bạch thông tin sản xuất, dù quá trình thực hiện vẫn còn nhiều khó khăn.
Theo đại diện HTX, việc ứng dụng công nghệ số là xu thế tất yếu để nâng cao giá trị nông sản và đáp ứng yêu cầu thị trường. Tuy nhiên, hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ đang là rào cản lớn. Một số vùng trồng cam của HTX chưa có sóng ổn định, khiến phần mềm không thể định vị và cập nhật dữ liệu. Bên cạnh đó, chi phí duy trì phần mềm, chứng nhận tiêu chuẩn và tuân thủ quy trình kỹ thuật khiến nhiều HTX nhỏ gặp áp lực tài chính.
Khó khăn lớn hơn nằm ở sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các HTX sản xuất bài bản với nông dân sản xuất tự do. Trong khi HTX phải chịu thuế, phí và áp dụng các tiêu chuẩn như ISO 22000, thì nông dân bên ngoài vẫn bán sản phẩm dễ dàng với giá rẻ hơn.
Hiện có tới 70–80% người tiêu dùng trong nước vẫn ưu tiên mua hàng tại chợ truyền thống, quan tâm nhiều đến giá cả hơn là truy xuất nguồn gốc. Điều này khiến sản phẩm làm đúng quy trình lại gặp bất lợi ngay trên thị trường nội địa.
Một vấn đề khác là tình trạng hàng giả, hàng nhái thương hiệu cam Cao Phong vẫn tràn lan, khiến người tiêu dùng nhầm lẫn và làm giảm uy tín của sản phẩm có chỉ dẫn địa lý. HTX kiến nghị các cơ quan chức năng cần tăng cường bảo hộ thương hiệu, đồng thời hỗ trợ hạ tầng số, truyền thông và chính sách khuyến khích nông dân tham gia HTX.
Dù gặp nhiều khó khăn, HTX 3T Nông Sản Cao Phong vẫn kiên trì theo đuổi con đường sản xuất sạch, minh bạch và chuyển đổi số. Đại diện HTX khẳng định, chỉ khi có sự đồng hành giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, chuyển đổi số trong nông nghiệp mới thực sự trở thành động lực cho phát triển bền vững.
Chuyển đổi số - con đường tất yếu để nông nghiệp và HTX phát triển bền vững
Phát biểu kết luận Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh, chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ là xu thế, mà đã trở thành điều kiện sống còn để các HTX, doanh nghiệp và người nông dân phát triển bền vững trong kỷ nguyên kinh tế số.
Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, quá trình chuyển đổi số cần được nhìn nhận là một hành trình dài hơi, đòi hỏi thời gian, sự kiên trì và đặc biệt là tầm nhìn chiến lược.
“Không thể chỉ trong một năm là có kết quả. Mỗi giai đoạn cần có bước đi phù hợp để người dân, HTX có thể thích ứng, dần hình thành thói quen sản xuất – kinh doanh theo hướng minh bạch, chuyên nghiệp và bền vững”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cho rằng, điều quan trọng nhất hiện nay là phải xây dựng được quy trình sản xuất, bảo quản, quản trị và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp gắn liền với công nghệ số. Đây chính là yếu tố cốt lõi để trả lời câu hỏi làm thế nào để nông sản Việt có thể khẳng định được vị thế và giá trị trên thị trường trong nước và quốc tế.
“Chuyển đổi số không thể tách rời chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp. Mỗi HTX, mỗi doanh nghiệp cần xác định rõ chiến lược dài hạn, gắn công nghệ với quản trị, với sản xuất và với thị trường. Nếu không có sự bền vững, HTX khó có thể phát triển”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhấn mạnh.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cũng gửi thông điệp tới các cơ quan quản lý, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi để HTX có thể hưởng lợi từ chuyển đổi số. Sự điều chỉnh chính sách kịp thời của Nhà nước chính là “chìa khóa” giúp HTX phát triển vững chắc trong môi trường kinh tế số.
Tổng kết lại nội dung của Diễn đàn, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam khẳng định: Chuyển đổi số trong nông nghiệp cần đạt được “2 tốt, 1 tăng, 1 giảm”.
“2 tốt” là quản lý tốt hơn và minh bạch hơn. Minh bạch trong sản xuất, minh bạch trong quy trình và minh bạch trong thương mại là điều kiện tiên quyết để người nông dân, HTX có thể tiếp cận các nguồn vốn đầu tư, quỹ phát triển, cũng như niềm tin của thị trường.
“1 tăng” là tăng thu nhập cho người nông dân và thành viên HTX thông qua năng suất cao hơn, sản phẩm chất lượng hơn, giá trị gia tăng tốt hơn.
“1 giảm” là giảm rủi ro và tổn thất trong sản xuất, tiêu thụ, chấm dứt tình trạng “giải cứu nông sản” lặp đi lặp lại nhiều năm qua.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam dẫn chứng nhiều mô hình thành công, từ các HTX sản xuất rau sạch, trồng chanh dây, đến các hộ trồng cây ăn quả quy mô lớn đã chủ động ứng dụng công nghệ số vào canh tác, giám sát quy trình và tiêu thụ sản phẩm, nhờ đó nâng cao thu nhập bền vững.
Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân, minh bạch chính là “chìa khóa vàng” trong chuyển đổi số. Khi dữ liệu được công khai, quy trình được chuẩn hóa, người tiêu dùng trong và ngoài nước sẽ tin tưởng hơn vào nông sản Việt. Chính nhờ sự minh bạch, HTX có thể tiếp cận nguồn vốn, các quỹ hỗ trợ, các dự án đầu tư, cũng như nâng cao vị thế của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu.
“Chúng ta phải tập cho nông dân và thành viên HTXquen với việc công khai quy trình sản xuất, minh bạch dữ liệu, bởi đó là bước khởi đầu để tiếp cận thị trường toàn cầu”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.
Theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, chuyển đổi số không chỉ là ứng dụng phần mềm hay thiết bị, mà là quá trình tái cấu trúc toàn bộ mô hình sản xuất, kinh doanh, quản lý của HTX. Từ khâu giống, canh tác, thu hoạch, chế biến, logistics đến tiêu thụ – tất cả đều cần được số hóa để đảm bảo truy xuất nguồn gốc, tăng hiệu quả và giảm chi phí.
“Hiện nay, chuyển đổi số không còn là lựa chọn thích thì làm, không thích thì thôi. Đây là vấn đề sống còn. Nếu không chuyển đổi, chúng ta sẽ bị đào thải”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam lưu ý, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn từ quá trình ứng dụng công nghệ trong quản lý nội bộ của chính Liên minh HTX Việt Nam.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân khẳng định, chuyển đổi số trong nông nghiệp Việt Nam đang đi đúng hướng, song vẫn còn nhiều rào cản về thể chế, tài chính, nguồn nhân lực và niềm tin. Vì vậy, Liên minh HTX Việt Nam sẽ tiếp thu đầy đủ ý kiến, giải pháp từ các phiên thảo luận, tổng hợp để kiến nghị lên các bộ, ngành và Chính phủ, nhằm cụ thể hóa thành chính sách hỗ trợ thiết thực cho HTX.
“Chúng ta cần biến cơ hội từ chuyển đổi số thành sức bật tăng trưởng mới cho nông nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp, HTX và từng thành viên phải nhanh chóng hành động, có chiến lược công nghệ số hóa rõ ràng, phát huy sáng tạo, kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp nông nghiệp để góp phần đưa nông nghiệp trở thành động lực tăng trưởng bền vững của nền kinh tế”, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam nhấn mạnh.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam gửi lời cảm ơn tới Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, HTX và các cơ quan báo chí đã đồng hành, góp phần vào thành công của Diễn đàn.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân bày tỏ mong muốn Diễn đàn tiếp tục là cầu nối quan trọng để lan tỏa tinh thần đổi mới, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong nông nghiệp – vì một nền nông nghiệp Việt Nam hiện đại, minh bạch và phát triển bền vững.
TCKD
























