CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Theo dự kiến sắp tới CTCP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An (ở Cần Thơ) sẽ xuất khẩu (XK) khoảng 200 tấn gạo ST25 đạt chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp” đi Australia với mức giá gần 1.200 USD/tấn.
Từ tín hiệu xuất khẩu gạo phát thải thấp…
Đây là minh chứng cho thấy việc chuyển đổi tư duy sản xuất lúa gạo đơn thuần sang phát triển bền vững (biết khai thác hiệu quả đất đai, vừa bảo vệ sức khỏe của đất vừa nâng cao giá trị gia tăng) từ phía nông dân và doanh nghiệp (DN) trong ngành hàng lúa gạo. Như trước đó, trong thượng tuần tháng 6/2025, phía Công ty Trung An cũng đã lần đầu tiên xuất thành công lô gạo 500 tấn đạt chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp” sang thị trường Nhật Bản.
Những yêu cầu cao hơn trên thị trường XK đòi hỏi ngành hàng nông sản phải thay đổi với “tư duy xanh” mới có thể vươn cao và bay xa.
Như chia sẻ của ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty Trung An, tiêu chí giảm phát thải là một trong số những yêu cầu từ phía Nhật. Và để đáp ứng yêu cầu thì công ty đã phối hợp với một đối tác Nhật để thực hiện tại vùng trồng ở tỉnh Kiên Giang.
Nên biết, hiện trong nước mới chỉ có 7 DN được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu “Gạo Việt xanh phát thải thấp” với tổng khối lượng 19.200 tấn, tức chiếm khoảng 0,22% tổng lượng gạo XK của Việt Nam hồi năm 2024.
Với con số khiêm tốn như vậy, sẽ có rất nhiều dư địa để các DN lúa gạo khác thay đổi tư duy trong sản xuất để bước vào thị trường gạo phát thải thấp nhưng giá trị cao này. Điều này cũng gắn với “Đề án phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030”, trong đó, mục tiêu đặt ra cho năm 2025 này là diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt 180.000 ha.
Và nhiều HTX lúa gạo ở ĐBSCL khi tham gia Đề án này đã bày tỏ rằng đã nhận được những lợi ích rõ rệt khi chi phí đầu vào giảm đến 20% (nhờ áp dụng đồng bộ các quy trình kỹ thuật là giảm giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và giảm phát thải khí nhà kính) và lợi nhuận tăng cao hơn 12% (năng suất, chất lượng lúa đạt cao, chưa kể sản phẩm lúa đầu ra được DN bao tiêu và đã ký hợp đồng bao tiêu lúa liên tiếp trong các vụ tới).
Không riêng gì lúa gạo, với ngành hàng nông sản nói chung, việc XK theo tiêu chí giảm phát thải có thể xem là xu hướng mới nhưng rất cần thiết, đặc biệt đối với các thị trường nhập khẩu lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Các thị trường này đang áp dụng các hàng rào kỹ thuật về phát thải carbon, buộc các nhà XK phải chứng minh hàng hóa của họ có phát thải thấp, không xuất phát từ việc phá rừng (từ năm 2025) và giảm phát thải carbon (từ năm 2026).
Ngoài ra, với thị trường quan trọng như EU, bên cạnh tiêu chí giảm phát thải thì ngành hàng nông sản Việt cũng cần lưu ý phải tuân thủ Quy định chống mất rừng của EU (EUDR).
Như thông tin mới đưa ra từ Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, từ ngày 30/12/2025, tất cả hàng hóa XK vào EU thuộc 7 nhóm hàng (gồm cà phê, ca cao, đậu nành, dầu cọ, cao su, gỗ, gia súc) sẽ phải tuân thủ EUDR.
Như vậy có thể thấy những mặt hàng nông sản XK chủ lực của Việt Nam như cà phê, ca cao, cao su, gỗ sẽ chịu ảnh hưởng từ quy định này. Như lưu ý từ phía thương vụ, để đáp ứng các yêu cầu của EUDR, DN Việt Nam cần chủ động chuẩn bị đầy đủ hồ sơ và dữ liệu liên quan đến vùng nguyên liệu.
Trước hết, cần thu thập và cung cấp thông tin tọa độ địa lý (geodata) của vùng trồng để chứng minh khu vực sản xuất không liên quan đến nạn phá rừng sau ngày 1/1/2021. Đồng thời, cần có tài liệu pháp lý rõ ràng chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp và quá trình sản xuất tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam.
Đến yêu cầu cao hơn của thị trường
Hơn thế nữa, theo Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, một yếu tố quan trọng khác là khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng – từ nông trại đến nhà máy chế biến và XK – để đảm bảo tính minh bạch và đáng tin cậy cho đối tác nhập khẩu tại EU.
“Việc chuẩn bị các thông tin và tài liệu này không chỉ giúp DN đáp ứng yêu cầu pháp lý từ thị trường châu Âu, mà còn là bước khẳng định cam kết phát triển bền vững, tăng độ tin cậy với khách hàng quốc tế và duy trì năng lực cạnh tranh trong bối cảnh các quy định về môi trường và nhân quyền ngày càng siết chặt”, phía thương vụ nhấn mạnh.
Ngoài vấn đề về phát thải thấp hay tuân thủ EUDR, trong đại hội toàn thể của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản (Vasep) tổ chức ở Tp.HCM hôm 12/6 có nêu rõ các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như FTA Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA)…tiếp tục mở ra cơ hội về thuế quan, nhưng đồng thời đặt ra yêu cầu cao hơn về truy xuất nguồn gốc, phát triển xanh và trách nhiệm xã hội.
Chính vì vậy phía Vasep nhấn mạnh điều này đòi hỏi tư duy đổi mới, chiến lược dài hạn và sự liên kết chặt chẽ giữa các bên. Hoặc như một trong những thách thức lớn hiện nay là thuế đối ứng của Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng hóa Việt Nam, trong đó có thủy sản. Đây không chỉ là trở ngại về chi phí, mà còn đòi hỏi DN nâng cao năng lực phòng vệ thương mại và điều chỉnh chuỗi cung ứng theo hướng minh bạch, bền vững.
Ngoài ra, theo Vasep, chi phí sản xuất tiếp tục leo thang, cạnh tranh quốc tế gay gắt hơn từ các nước như Ấn Độ, Thái Lan, Ecuador. Biến đổi khí hậu làm suy giảm nguồn lợi và chất lượng nguyên liệu. Thẻ vàng IUU cũng tiếp tục là thách thức lớn trong XK. Các tiêu chuẩn xanh, sạch, trách nhiệm xã hội, phát thải thấp không còn là xu hướng, mà là yêu cầu bắt buộc của thị trường.
Do đó, hiệp hội này đặt ra phương châm hành động xuyên suốt trong giai đoạn mới (2025 - 2030) là “Chủ động thích ứng – đổi mới sáng tạo – phát triển bền vững”. Điều này cần các DN cam kết hành động mạnh mẽ, thúc đẩy các sáng kiến đổi mới sáng tạo trong sản xuất, chế biến, phân phối theo hướng xanh – sạch – tuần hoàn. Qua đó nhằm hướng mục tiêu đến năm 2030 là đưa ngành thủy sản Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, có năng lực cạnh tranh toàn cầu, với kim ngạch XK đạt từ 14–16 tỷ USD.
Nói chung, từ câu chuyện XK gạo giảm phát thải, cho đến những yêu cầu đặt ra như tuân thủ EUDR ở một số mặt hàng nông sản chủ lực, cùng một loạt yêu cầu cao hơn từ thị trường được Vasep chỉ rõ, để thấy để ngành hàng nông sản Việt đi được đường dài, vươn cao và bay xa thì điều cần làm trong lúc này là phải có sự chuyển biến, thay đổi theo “tư duy xanh”.
Thế Vinh