CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

‘Việt Nam có thể làm chủ công nghệ lò hạt nhân công suất nhỏ vào năm 2040’

Invest Global 09:02 30/09/2025

Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt đang lên kế hoạch phát triển lò phản ứng hạt nhân module nhỏ, mục tiêu có 8-10 tổ máy trước năm 2035, và làm chủ công nghệ vào năm 2040, theo Viện trưởng Cao Đông Vũ.
Để chuẩn bị nguồn năng lượng cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, Nghị quyết 70/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu từng bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân.

Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt (Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam), nơi vận hành lò phản ứng hạt nhân duy nhất Việt Nam hơn 40 năm qua, có vai trò trung tâm trong thực hiện chiến lược này. Để thực hiện nhiệm vụ mới, TS Cao Đông Vũ, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, chia sẻ với VnExpressvề kế hoạch chuyển hướng từ đơn vị nghiên cứu - sản xuất sang nghiên cứu - đào tạo - thực hành, nhằm từng bước làm chủ và nội địa hóa công nghệ hạt nhân, bắt đầu từ lò phản ứng hạt nhân công suất nhỏ.

TS Cao Đông Vũ (áo vest xanh), Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, giới thiệu về Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân
- Là địa điểm đào tạo - thực hành duy nhất về lò phản ứng hạt nhân trong nước, Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt có kế hoạch gì để chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự phát triển của ngành theo yêu cầu mới?

- Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt hiện là cơ sở phù hợp nhất có thể đảm đương vai trò đào tạo, huấn luyện đầy đủ về lò phản ứng hạt nhân. Tuy nhiên, mô hình tổ chức hiện tại của Viện Nghiên cứu hạt nhân, trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, còn thiếu linh hoạt và nguồn lực đào tạo bị phân tán. Điều này gây khó khăn trong chuẩn bị nhân lực cho các dự án trọng điểm được Nghị quyết 70 đặt ra như Dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Công nghệ hạt nhân với lò hạt nhân nghiên cứu mới ở Đồng Nai, nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, và lò phản ứng module nhỏ (SMR).

Để khắc phục hạn chế này, theo chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tháng 8 vừa qua, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với Viện Nghiên cứu hạt nhân xây dựng "Đề án thành lập Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo thực hành hạt nhân Quốc gia" trên cơ sở tái cấu trúc, sáp nhập Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt) và Trung tâm Đào tạo hạt nhân (Hà Nội). Trung tâm mới vẫn trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

Mục tiêu là định vị lại vai trò của Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, phát triển nơi đây thành một trung tâm đào tạo thực hành, nghiên cứu chuyên biệt và đổi mới sáng tạo hạt nhân dân sự.  Nhiệm vụ là đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và tiến tới làm chủ các công nghệ chiến lược như lò phản ứng module nhỏ - xu hướng chung trên thế giới hiện nay.

Mô hình lò phản ứng module nhỏ có công suất dưới 300 MW điện mỗi tổ máy, nhỏ hơn nhiều so với lò truyền thống (1.000 - 1.600 MW/tổ máy). Ưu điểm của loại lò phản ứng module nhỏ là áp dụng công nghệ an toàn thụ động hoàn toàn, đối lưu tự nhiên, tự làm mát lõi lò mà không cần nguồn điện ngoài. Còn các loại lò truyền thống có thời gian an toàn thụ động hạn chế hơn. Hơn nữa, chi phí, thời gian đầu tư lò nhỏ cũng rút ngắn hơn, và tính linh hoạt cao, dễ mở rộng, phù hợp lưới điện nhỏ.

Tuy nhiên, công nghệ lò module nhỏ có nhược điểm là đang trong giai đoạn vừa nghiên cứu, vừa thử nghiệm và kiểm chứng. Trong khi, lò phản ứng truyền thống đã được thế giới kiểm chứng hơn 70 năm, nên hầu hết khuyết điểm đã dần được khắc phục. Do đó, thời gian tới, Viện sẽ tập trung vào nghiên cứu loại lò phản ứng thế hệ mới này, đồng thời tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, quốc gia có nền khoa học hạt nhân phát triển như Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc,...

- Kế hoạch cụ thể về phát triển mô hình lò phản ứng module nhỏ sắp tới sẽ ra sao?

- Lò phản ứng module nhỏ (SMR) đã được Chính phủ đưa vào danh mục 11 công nghệ chiến lược quốc gia, đó là cơ hội để phát triển. Muốn tự chủ công nghệ, trước mắt, Việt Nam phải hợp tác với một hoặc vài nước có công nghệ nguồn để lắp đặt một tổ máy phục vụ nghiên cứu, tìm hiểu công nghệ.

Trên cơ sở đó, đầu tư để phát triển và làm chủ công nghệ vào khoảng năm 2040. Về số lượng, ước tính trước năm 2035 có khoảng 8-10 tổ máy, đến năm 2045 có khoảng 30-35 tổ máy. Viện Nghiên cứu hạt nhân sẽ tích cực tham gia nghiên cứu công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực để tham gia từ đầu các dự án về lò phản ứng module nhỏ của Việt Nam.


- Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt là sản xuất, cung cấp thuốc phóng xạ cho các bệnh viện. Khi chuyển hướng từ sản xuất sang đào tạo, nhiệm vụ này sẽ được tính toán ra sao?

- Hiện mỗi năm, Lò Đà Lạt cung cấp từ 1.000 đến 1.500 Ci thuốc phóng xạ sản xuất tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt cho 23 trên tổng số 40 khoa Y học hạt nhân trong cả nước, hơn nhiều lần so với thời điểm lò mới vận hành (năm 1984). Áp lực và nhu cầu ngày càng cao khi số lượng khoa y học hạt nhân ở các bệnh viện ngày một tăng lên.

Đỉnh điểm như giai đoạn Covid-19, khi việc nhập khẩu bị gián đoạn hoàn toàn, lò đã vận hành cường độ cao, trung bình trên 4.500 giờ - gấp gần ba lần trung bình nhiều năm trước. Nhờ đó, lò đáp ứng gần 100% nhu cầu trong nước về thuốc phóng I-131 (điều trị các bệnh lý tuyến giáp), phục vụ chẩn đoán và điều trị cho hàng triệu bệnh.

Năm 2027, dự kiến Lò hạt nhân mới thuộc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Công nghệ hạt nhân ở Đồng Nai sẽ hoàn tất việc phê duyệt dự án đầu tư, và triển khai xây dựng. Lò mới có công suất 10 MW, gấp 20 lần lò cũ, do đó sẽ giải quyết vấn đề nguồn cung dược phẩm phóng xạ và hỗ trợ các chương trình nghiên cứu quy mô lớn. Định hướng từ nay tới 2035, chức năng sản xuất sẽ dần được chuyển giao cho Trung tâm hạt nhân mới này.


Nhân viên Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt sản xuất KIT đông khô dùng để đánh dấu đồng vị phóng xạ phục vụ chẩn đoán trong y tế. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân
- Nghị quyết 70 đặt ra yêu cầu từng bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân. Theo ông, để hiện thực hóa mục tiêu này, ngành hạt nhân cần khắc phục những khoảng trống nào?

- Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu tự chủ toàn bộ năng lượng, trong đó điện hạt nhân là một trụ cột quan trọng. Kinh nghiệm từ 40 năm vận hành Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt an toàn giúp chúng tôi đúc rút được nhiều bài học.

Với hạt nhân, tự chủ không có nghĩa là làm tất cả một mình, mà có lộ trình từng bước xây dựng năng lực cốt lõi trong nghiên cứu, thiết kế, vận hành, quản lý an toàn và dần nội địa hóa chuỗi cung ứng. Để làm được điều đó, Việt Nam cần tập trung vào ba điểm chính.

Thứ nhất, an toàn đặt lên hàng đầu bằng cách xây dựng hệ thống pháp quy, giám sát độc lập theo chuẩn quốc tế. Thứ hai, đào tạo nhân lực hạt nhân chất lượng cao tại các trường đại học trong nước cùng Trung tâm nghiên cứu và đào tạo thực hành quốc gia, với chương trình chuẩn hóa theo quốc tế, gắn đào tạo lý thuyết với thực hành, kết hợp hợp tác sâu rộng cùng Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) và các đối tác. Thứ ba, từng bước làm chủ công nghệ, bắt đầu từ lò phản ứng nghiên cứu, lò phản ứng hạt nhân module nhỏ, tiến tới tham gia chuỗi cung ứng điện hạt nhân.

Đội ngũ nhân lực hạt nhân ở Việt Nam hiện có nền tảng khá tốt, với hàng nghìn kỹ sư, nhà khoa học được đào tạo trong và ngoài nước. Nhiều người có kinh nghiệm làm việc với Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và các dự án nghiên cứu ứng dụng.

Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hạt nhân, đặc biệt là điện hạt nhân, chúng ta vẫn còn khoảng cách khá lớn so với chuẩn quốc tế. Khoảng trống lớn nhất hiện nay là thiếu kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng, vận hành và quản lý nhà máy điện hạt nhân quy mô lớn. Cùng với đó, hệ thống đào tạo thực hành chưa đồng bộ, và sự gắn kết giữa nghiên cứu - sản xuất - doanh nghiệp trong lĩnh vực hạt nhân còn hạn chế. Việc làm chủ công nghệ cốt lõi và chuỗi cung ứng trong nước cũng vẫn là thách thức.

Để lấp đầy khoảng trống này, chúng ta cần tập trung xây dựng trung tâm nghiên cứu và đào tạo thực hành quốc gia, tăng cường hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ, đồng thời phát triển các doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng thiết bị, dịch vụ. Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, đây là con đường để từng bước nội địa hóa và xây dựng nền công nghiệp hạt nhân bền vững.

Mây Trinh