CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), kỷ nguyên công nghệ mới đang định hình lại mô hình tăng trưởng và những quốc gia có thể phát triển đội ngũ nhân lực đông đảo và xuất sắc sẽ nắm lợi thế dẫn đầu.
Việt Nam ý thức rõ điều này và đang thể hiện quyết tâm chính trị rất mạnh mẽ, và coi đây là một việc cần làm để thực hiện hóa mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, với nền kinh tế dựa trên công nghệ và tri thức.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, và Nghị quyết 71 về đột phá về giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là hai minh chứng rõ ràng nhất, bà Trần Ánh Nguyệt – Chuyên gia kinh tế WB nhận xét như vậy khi trình bày báo cáo của WB có chủ đề "Bứt tốc phát triển nhân tài công nghệ cao của Việt Nam" ngày 8/9.

Chính phủ đặt mục tiêu tham vọng cụ thể cho trí tuệ nhân tạo (AI), bán dẫn và công nghệ sinh học, nhằm chuyển dịch từ nền kinh tế chủ yếu gia công, lắp ráp sang nền kinh tế tri thức, kiến tạo công nghệ và đổi mới.
Theo đánh giá của WB, về địa lý, Việt Nam đang ở ngay trung tâm đổi mới sáng tạo năng động nhất toàn cầu, với 5 cụm lớn nhất thế giới và 36 trong top 100 cụm khoa học - công nghệ (KHCN) đều tập trung ở khu vực Đông Á.
"Đây vừa là cơ hội để chúng ta kết nối vào mạng lưới khu vực, vừa là thách thức khi phải cạnh tranh với các nước láng giềng – những quốc gia, nền kinh tế đã có lịch sử đầu tư dài hạn vào KHCN và nhân lực trình độ cao", bà Nguyệt nói.
Dù nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn là thâm dụng lao động, đòi hỏi về nhân lực cho các ngành công nghệ cao thể hiện rất rõ trong lĩnh vực dược phẩm và lập trình máy tính. Theo đó, tỷ lệ lao động trình độ cao – đại học và sau đại học - cao vượt trội so với trung bình chung. 28% lao động trong ngành dược phẩm có trình độ đại học trở lên, gấp 4 lần mặt bằng chung các ngành sản xuất. Con số trong ngành dịch vụ lập trình máy tính là 80-90% tùy năm.
Đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực sẽ còn cao hơn nữa khi mà Việt Nam dần chuyển đổi mô hình kinh tế. "Nếu Việt Nam muốn phát triển dựa trên công nghệ và các ngành kinh tế thâm dụng công nghệ, đào tạo và thu hút nhân tài công nghệ không còn là lựa chọn, mà là điều kiện tiên quyết", chuyên gia WB nhấn mạnh.
Ba khoảng cách nhân tài trong các lĩnh vực công nghệ cao trọng yếuMặc dù có quyết tâm và mục tiêu, tiềm năng, điểm sáng rõ ràng, nhưng Việt Nam đối mặt với ba khoảng cách lớn về nhân lực chất lượng cao, mà WB gọi là khoảng cách "ba biên".
Đó là (i) "biên rộng" (số lượng): đòi hỏi một lực lượng nhân tài quy mô lớn hơn nhiều so với nguồn nhân lực trong nước đã đào tạo; (ii) "biên sâu" (chất lượng): nhân lực cần có chiều sâu chuyên môn, có tính liên ngành và khả năng thích ứng cao; (iii) "biên tích hợp" (liên kết hệ sinh thái): liên kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo, đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp.
"Để đạt được tham vọng về nhân lực công nghệ cao, Việt Nam cần thu hẹp đồng thời cả ba biên khoảng cách này", bà Nguyệt khuyến nghị.

Một ví dụ cụ thể về các khoảng cách đó là nền tảng nhân lực cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam còn rất khiêm tốn, và tốc độ tăng trưởng cũng chậm. Theo đó, cả con số tuyệt đối và tương đối đều nhỏ so với quy mô dân số và so với các nước cùng định hướng phát triển công nghệ cao, ngay cả so với các nước trong khu vực như Thái Lan và Malaysia.
Một ví dụ khác là Việt Nam có đội ngũ nghiên cứu, khoa học thuộc diện nhân tài hàng đầu thế giới, nhưng lại thiếu vắng tinh hoa ở vị trí dẫn dắt trong hệ thống đổi mới sáng tạo trong nước.
Dẫn dữ liệu của Viện Chính sách Chiến lược của Úc, bà Nguyệt cho biết, với nhà nghiên cứu/khoa học Việt Nam thuộc diện nhân tài hàng đầu (có nghiên cứu chất lượng trong top 25% toàn cầu), học đại học ở Việt Nam trong các ngành công nghệ cao, công nghệ mới nổi, có đến 64% trong số họ đã không quay trở về nước làm việc.
Hơn nữa, hệ thống giáo dục đại học và nghiên cứu của Việt Nam chưa có tên tuổi nào vươn tầm thế giới. Việc thiếu vắng những cơ sở nghiên cứu, đào tạo đỉnh cao cho thấy Việt Nam thiếu những "đầu tàu" để dẫn dắt nâng cao mặt bằng chất lượng nhân lực nói chung.

WB nhận diện ba "nút thắt" hệ thống chính đang cản trở việc phát triển nhân lực công nghệ cao: Đầu tư tài chính, vòng lặp luẩn quẩn sau đại học – nguồn giảng viên, nghiên cứu xuất sắc; và liên kết đại học – doanh nghiệp.
Bà Nguyệt lấy ví dụ, đầu tư cho giáo dục đại học và R&D của Việt Nam chỉ bằng 1/2 hay 1/3 kể cả khi so với Thái Lan hay Malaysia.
"Khi nguồn lực tài chính cho đại học và nghiên cứu hạn hẹp, chúng ta khó có đủ trang thiết bị hiện đại, khó thu hút chuyên gia giỏi, và cũng khó tạo môi trường thuận lợi để nhân tài phát huy năng lực", chuyên gia WB nói.
Mức đầu tư hạn chế cho R&D của cả khu vực công và tư nhân ở Việt Nam dẫn đến không đáp ứng đủ nhu cầu phát triển hạ tầng đào tạo, R&D trong các ngành công nghệ cao. Cơ sở vật chất tiên tiến đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn. Nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn còn thiếu những cơ sở hạ tầng trọng yếu đó.
Điều này không chỉ cản trở nỗ lực thương mại hóa kết quả nghiên cứu, mà còn làm giảm sức hấp dẫn Việt Nam đối với các dự án công nghệ cao, vốn đòi hỏi có cả một hệ sinh thái bao gồm các nhà cung cấp, các phòng thí nghiệm, cơ sở kiểm thử. Hai lĩnh vực điển hình phản ánh rõ tình trạng thiếu hụt cơ sở hạ tầng là vi mạch bán dẫn và công nghệ sinh học, bà Nguyệt nói.
Lời giải cho bài toán thiếu hụt nhân tàiĐể giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân tài cho lĩnh vực công nghệ cao, WB đề xuất một khung chiến lược gồm ba trụ cột chính tương ứng trực tiếp với những vấn đề nêu trên. Đó là (i) nhắm vào khoảng cách về số lượng và chất lượng nhân tài; (ii) giải quyết khoảng cách về liên kết hệ sinh thái; (iii) tháo gỡ rào cản hạ tầng.
Báo cáo WB khuyến nghị chọn 3 đột phá trong 3 trụ cột này. Đó là: Tăng số lượng và chất lượng nhân lực công nghệ cao (đặc biệt sau đại học); thúc đẩy hợp tác “ba nhà” và chuyển giao tri thức, KHCN từ doanh nghiệp FDI; xây dựng cơ sở hạ tầng cho đào tạo, R&D và sản xuất tiền thương mại.
Theo bà Nguyệt, Việt Nam cần tới hàng trăm tiệu USD để bắt đầu và tạo ra đột phá trong xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu, điều kiện để bồi dưỡng, thu hút, giữ chân nhân tài công nghệ với 3 lĩnh vực AI, bán dẫn và công nghệ sinh học.
"Thông điệp chính ở đây là: Để bứt phá, chúng ta phải sẵn sàng đầu tư lớn, có trọng tâm và dài hạn", chuyên gia WB kết luận.

Chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, TS Nguyễn Thanh Hùng, Trưởng Ban Đào tạo – Đại học Bách khoa Hà Nội cho rằng, để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, các trường đại học cần phải phối hợp với nhau và với các đối tác ở nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước.
Đơn cử, đào tạo nhân lực đủ khả năng thực nhiện các dự án lớn của Nhà nước, như đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam hay điện hạt nhân, đòi hỏi các khối kiến thức và kỹ năng khác nhau và đến từ nhiều đơn vị đào tạo.
Ngoài ra, mỗi trường có một thế mạnh và Nhà nước không thể đầu tư dàn trải mà đầu tư tập trung vào một số lĩnh vực, một số đơn vị. Do đó, các trường cần cởi mở trong việc chia sẻ với nhau về tài nguyên và cùng nhau xây dựng các chương trình đào tạo.
Để thu hút nhân tài từ nước ngoài trở về nước, Đại học Bách khoa đã xây dựng một cơ chế riêng cho nhân tài về vị trí việc làm, lương và chế độ để thu hút những người ở những chuyên gia nước ngoài để làm việc tại Đại học này cũng như các chuyên gia người Việt hoặc các cựu sinh viên và hiện là chuyên gia nước ngoài.