CỔNG THÔNG TIN VÀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
(TBTCO) - Trả lời phóng viên, ông Nguyễn Bá Hùng - chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam khẳng định, bức tranh kinh tế Việt Nam 5 tháng đầu năm vẫn duy trì tương đối tích cực. Tuy nhiên, không thể để tâm lý chủ quan trong chặng đường phía trước cần được theo dõi sát sao để có các phản ứng chính sách phù hợp.

PV: Qua các số liệu mới được Cục Thống kê công bố, ông đánh giá như thế nào về bức tranh kinh tế - xã hội của Việt Nam 5 tháng đầu năm?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Kinh tế Việt Nam 5 tháng đầu năm tiếp tục duy trì tương đối tích cực, tiếp đà tăng trưởng tốt từ quý I, với nhiều gam màu sáng ở nhiều lĩnh vực.
Trong đó, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 5 tháng đầu năm cũng đạt kết quả rất tốt, trong đó giải ngân FDI đạt gần 9 tỷ USD. Chỉ số giải ngân FDI và chỉ số phát triển công nghiệp, sản xuất công nghiệp cũng tương đối đi với nhau cho thấy FDI mặc dù có những bất ổn về chính sách thuế xuất khẩu nhưng vẫn khá tốt.
Theo ông Nguyễn Bá Hùng, áp lực về lạm phát và tỷ giá với Việt Nam hiện không lớn. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách vẫn cần theo dõi sát diễn biến của thị trường quốc tế, điều hành tỷ giá cần linh hoạt, đảm bảo cho nhu cầu về ngoại tệ phục vụ các hoạt động xuất, nhập khẩu và có sự chuẩn bị cho Việt Nam để đối phó với các mức thuế quan hoặc các cạnh tranh thương mại trong thời gian tới.
Xuất, nhập khẩu tăng trưởng tích cực, với tổng kim ngạch tăng 15,7% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu tăng 14%, nhập khẩu tăng 17%. Điều này có một phần nguyên nhân do hiện tượng “front loading”, tức là các doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu đã tranh thủ đẩy mạnh xuất hàng ngay từ quý I, có thể kéo dài đến quý II, nhằm ứng phó với sự bất ổn liên quan đến các biện pháp thuế của Mỹ vốn đã được công bố từ đầu tháng 4, sau đó tạm hoãn 90 ngày để đàm phán. Những doanh nghiệp xuất khẩu đang cố gắng để xuất khẩu tiếp, nên xuất khẩu của Việt Nam được kỳ vọng tiếp tục duy trì xu hướng này ít nhất đến hết tháng 6, tức là đến hết quý II.
Trong khi đó, giải ngân đầu tư công dù tăng trưởng đáng kể, 17,5% so với cùng kỳ năm trước, nhưng chỉ mới đạt 24,3% kế hoạch năm, cho thấy còn nhiều dư địa để kích thích tăng trưởng cầu nội địa. Cùng với đó, các lĩnh vực khác như nông nghiệp, bán lẻ, tiêu dùng, dịch vụ cũng tương đối ổn định.
PV: Riêng về đầu tư nước ngoài, xin ông cho biết đánh giá của mình về điểm sáng trong bối cảnh từng có nhiều lo ngại việc áp thuế quan sẽ khiến dòng vốn giảm sút, nhưng hiện nay số liệu thực tế lại cho thấy xu hướng tích cực?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 tháng đầu năm cho thấy kết quả rất tích cực, trong đó giải ngân được khoảng gần 9 tỷ USD, tăng 7,9%. Kết quả giải ngân FDI tốt là hệ quả của những năm trước nhà đầu tư đã đăng ký và họ đang triển khai. Việc giải ngân FDI tích cực là một dấu hiệu cho thấy các hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn ổn định.
Ảnh hưởng của thuế quan có thể gây ra hành động điều chỉnh của hoạt động đầu tư nước ngoài. Vốn FDI đăng ký mới giảm 13%, trong khi FDI tăng vốn có kết quả tích cực, đạt gần 18,4 tỷ USD và tăng khoảng 51% so với cùng kỳ năm trước. Đó cũng là dấu hiệu cho thấy, các dự án mà trước đó đã vào Việt Nam vẫn đang vận hành tích cực.
Việc vốn FDI đăng ký mới giảm 13,2% cũng có thể do ảnh hưởng của thuế quan, khi các nhà đầu tư đều dừng lại để xem xét, quan sát diễn biến tiếp theo. Điều này không có nghĩa là các nhà đầu tư không vào nữa, họ cần có thông tin rõ ràng hơn để đánh giá hiệu quả và tạm thời dừng lại nghe ngóng, đợi mọi thứ rõ ràng để quyết định vào tiếp hay không. Số đăng ký mới giảm, không có nghĩa là tương lai cũng giảm tiếp. Con số giảm này chỉ thể hiện nhà đầu tư tạm dừng lại, không nhất thiết thể hiện đánh giá tăng hay giảm về độ hấp dẫn của thị trường.
PV: Bức tranh kinh tế Việt Nam 5 tháng đầu năm cho thấy diễn biến tích cực trên nhiều trụ cột. Quan sát những diễn biến gần đây của kinh tế Việt Nam và cả thế giới, theo ông có những thách thức nào mà Việt Nam cần phải theo dõi chặt chẽ trong những tháng tới?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Thách thức lớn nhất là về kinh tế đối ngoại. Điều này liên quan tới diễn biến thuế quan của cả thế giới: thuế của Mỹ lên các nước khác; phản ứng của các nước khác đối với Mỹ. Hiện nay, một số quốc gia và khu vực như Trung Quốc, Canada và Liên minh châu Âu đã có các biện pháp thuế quan trả đũa. Các biện pháp đáp trả thuế quan giữa Mỹ và các nền kinh tế này có thể ảnh hưởng gián tiếp tới Việt Nam ở góc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, nhu cầu về thương mại suy giảm dẫn đến cầu về nhập khẩu của cả thế giới cũng giảm. Điều này ảnh hưởng đến các nước xuất khẩu giống như Việt Nam, dẫn đến chuyện các nước xuất khẩu cạnh tranh gay gắt hơn. Nhu cầu nhập khẩu của toàn thế giới giảm xuống thì các nước sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn.
Rủi ro thứ hai là phản ứng của các nhà đầu tư đối với thuế quan. Hiện nay phản ứng trước mắt là các bên đều dừng lại để theo dõi diễn biến tiếp theo. Sau đó, họ sẽ cân nhắc mức thuế quan cuối cùng, không chỉ là mức thuế quan tuyệt đối mà Việt Nam phải chịu mà kể cả mức độ so sánh tương đối giữa mức thuế quan Việt Nam phải đối mặt so với các nước khác. Nếu Việt Nam không phải chịu mức thuế quan cao hơn nhiều, thì áp lực cạnh tranh giữa Việt Nam với các nước khác cũng sẽ bớt khó khăn hơn.
Rủi ro thứ ba mà Việt Nam cần phải lưu ý chính là việc triển khai các cải cách nội địa. Thời gian qua, các chỉ đạo ở cấp cao và các thông điệp chính sách rất mạnh mẽ trong việc cải cách, nâng cao hiệu quả, hiệu lực, góp phần tích cực cho triển vọng tăng trưởng. Trên thực tế, việc triển khai các biện pháp cải cách vẫn chưa mang lại hiệu quả thực tế với hoạt động sản xuất kinh doanh như kỳ vọng. Việc giải ngân đầu tư công, thực hiện chi ngân sách 5 tháng dù đạt kết quả tích cực so với cùng kỳ năm trước nhưng hiện vẫn còn kém so với kế hoạch đề ra.
Cùng với đó, các dấu hiệu tích cực thời gian vừa qua là xuất khẩu và đầu tư nước ngoài trong nửa cuối năm có rủi ro rất cao và khó duy trì được như đầu năm do yếu tố khách quan từ bên ngoài. Tiêu dùng trong nước vẫn ở mức ổn định, nhưng chưa có sự tăng trưởng mạnh, doanh nghiệp cũng đang có dấu hiệu “ngập ngừng”. Đây là những hạn chế cần tích cực khắc phục trong những tháng tới, để thúc đẩy tăng trưởng cao như mục tiêu Chính phủ đã đề ra. Muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng cao, những lĩnh vực này phải được đẩy mạnh hơn nữa.
PV: Vậy ông có khuyến nghị giải pháp gì cho công tác điều hành chính sách thời gian tới, để đảm bảo các mục tiêu tăng trưởng đã đề ra?
Ông Nguyễn Bá Hùng: Trước hết là giải pháp về chính sách tài khóa. Kế hoạch ngân sách đã được Quốc hội phê duyệt, vì vậy, cần đảm bảo việc thực hiện chính sách tài khóa hiệu quả hơn, đúng tiến độ, làm sao để nâng cao hiệu quả thực hiện chi ngân sách để kích cầu. Thứ hai là kích cầu tiêu dùng tư nhân trong nước. Thứ ba là kích thích đầu tư tư nhân trong nước bằng các cải cách môi trường kinh doanh.
Vừa qua, có rất nhiều phản ứng tích cực đối với Nghị quyết 68/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân và kỳ vọng nghị quyết có thể sẽ tạo ra những biện pháp cải cách căn bản cho môi trường đầu tư kinh doanh. Do đó, cần phải thúc đẩy những cải cách có hiệu quả để làm sao môi trường đầu tư kinh doanh ở trong nước thông thoáng, chi phí thấp, hiệu quả hơn. Một điều rất quan trọng nữa là các nỗ lực cải cách cần phải được thực hiện triệt để và nhất quán, hạn chế các biện pháp gây ra khó khăn mới với doanh nghiệp.
PV: Xin cảm ơn ông!